Lên Dục Thúy Sơn nhớ danh nhân Trương Hán Siêu
Hoa Lư vừa chính thức trở thành thành phố vào tháng 1/2025, hướng tới 'Đô thị Di sản thiên niên kỷ' phát triển du lịch - dịch vụ dựa trên nền tảng giá trị văn hóa - lịch sử, trong đó có Dục Thúy Sơn, ngọn núi do danh nhân Trương Hán Siêu đặt tên và khắc thạch bài thơ đầu tiên.
Sau 22 lần tập trung tổ chức ở Thủ đô Hà Nội, Ngày Thơ Việt Nam lần thứ 23 của Hội Nhà văn Việt Nam đã chọn thành phố Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình làm nơi tôn vinh thi ca. Hoa Lư là Kinh đô đầu tiên nước ta thời phong kiến do Đinh Tiên Hoàng tạo lập. Hoa Lư vừa chính thức trở thành thành phố vào tháng 1/2025, hướng tới "Đô thị Di sản thiên niên kỷ" phát triển du lịch - dịch vụ dựa trên nền tảng giá trị văn hóa - lịch sử, trong đó có Dục Thúy Sơn, ngọn núi do danh nhân Trương Hán Siêu đặt tên và khắc thạch bài thơ đầu tiên.
Một "bảo tàng thơ" độc đáo hiếm có
Bài thơ "Dục Thúy sơn" là một trong những điểm nhấn của đêm thơ Nguyên tiêu Ngày Thơ Việt Nam lần thứ 23 ở Hoa Lư. Cả phần tiếng Hán và tiếng Việt qua giọng ngâm truyền cảm của NSND Mai Thủy đã âm vang cuốn hút khán trường.
Sơn sắc thượng y y,
Du nhân hồ bất quy?
Trung lưu quang tháp ảnh,
Thượng giới khải nham phi.
Phù thế như kim biệt,
Nhàn danh ngộ tạc phi.
Ngũ hồ thiên địa khoát,
Hảo phỏng cựu ngư ky.
Nhà nghiên cứu Trần Văn Giáp dịch thơ:
Non xanh xanh vẫn như xưa
Du nhân đi mãi vẫn chưa thấy về?
Sóng in bóng tháp bồ đề,
Mở toang cửa động liền kề chân mây,
Đời lênh đênh trước khác nay,
Thân nhân mới biết trước ngày lầm to.
Mênh mông trời đất Năm hồ,
Vòm câu cũ, kíp thăm dò nơi đâu.

Tượng danh nhân Trương Hán Siêu trong đền thờ ông dưới chân núi Non Nước.
"Dục" tiếng Hán trong bài thơ có nghĩa là tắm, "thúy" là con chim trả. Núi Non Nước trong đôi mắt thi sĩ giàu sức liên tưởng của Trương Hán Siêu giống như con chim trả màu xanh biếc đang nghiêng mình tắm giữa cửa biển với "Mênh mông trời đất Năm hồ". Tên bài thơ của họ Trương cũng trở thành tên ngọn núi do ông khám phá đầu tiên vào thế kỷ XIII thời nhà Trần.
Kể từ khi bài "Dục Thúy sơn" của Trương Hán Siêu được khắc vào vách đá đầu tiên trên đỉnh núi thì lần lượt có hơn 100 bài thơ, văn, phú khác của các tao nhân mặc khách từ khắp nơi về đây cao hứng viết nên, trong đó có hơn 40 bài cũng được khắc thạch, biến núi Non Nước thành "bảo tàng thơ" độc đáo hiếm có, ghi dấu những tên tuổi như: Trần Anh Tông, Trần Minh Tông, Phạm Sư Mạnh, Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tông, Lê Hiến Tông, Nguyễn Huy Oánh, Ngô Thì Sỹ, Phan Huy Ích, Ngô Thì Nhậm, Ninh Tốn, Nguyễn Du, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức, Cao Bá Quát, Nguyễn Khuyến, Phạm Văn Nghị, Tản Đà,...
Núi Non Nước nằm ở phía đông bắc thành phố Hoa Lư, ngay ở ngã ba sông Đáy và sông Vân gần Quốc lộ 1 và Quốc lộ 10. Đêm thơ Nguyên tiêu diễn ra trong Nhà hát Phạm Thị Trân bên bờ sông Vân gần với núi Non Nước. Từng nhiều lần leo 72 bậc đá lên đỉnh núi ngắm cảnh đọc thơ, nhưng buổi chiều Nguyên tiêu Ất Tỵ 2025 với tôi cảm giác thật kỳ lạ. Như nghe đâu đây, bước chân, giọng nói, tiếng thơ của Trương Hán Siêu và bao bậc tiền nhân khác vọng về, đặc biệt là danh nhân Nguyễn Trãi thời nhà Hậu Lê với bài thơ cũng có tên "Dục Thúy Sơn" cảm nhớ Trương Thiếu bảo, tức Trương Hán Siêu, sau này được nhà thơ Khương Hữu Dụng dịch: "Cửa biển có non tiên/ Từng qua lại mấy phen/ Cánh tiên rơi cõi tục/ Mặt nước nổi hoa sen/ Bổng tháp hình trâm ngọc/ Gương sông ánh tóc huyền/ Nhớ xưa Trương Thiếu bảo/ Bia khắc dấu rêu hoen".
Một nhà văn hóa lớn
Tư liệu lịch sử cho thấy Trương Hán Siêu cùng với Nguyễn Trung Ngạn là hai vị quan nổi tiếng thời nhà Trần hiếm hoi sống trên 80 tuổi. Năm mất của ông từ lâu xác định là 1354, nhưng năm sinh thì mãi đến gần đây qua các công trình nghiên cứu mới dự đoán 1274. Quê ông ở làng Phúc Am, huyện Yên Ninh, lộ Trường Yên, nay là phường Vân Giang, thành phố Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình. Tên tự của ông là Thăng Phủ hoặc Thăng Am, hiệu Đôn Tẩu, làm quan trải 4 đời vua nhà Trần.
Thời trẻ Trương Hán Siêu là môn khách của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn ở Trường Yên. Có ý kiến cho rằng ông là danh tướng, mưu sĩ có nhiều công lao trong hai cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông. Thực tế trong hai cuộc chiến tranh, lần thứ hai vào năm 1285 và lần thứ ba vào năm 1287, thì ông còn rất trẻ, có chăng chỉ giúp một số việc văn thư cho vị thống soái. Có chăng hậu thế vì quá yêu mến mà suy diễn gán ghép cho tiền nhân.
Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn trước khi qua đời năm 1300 đã tiến cử Trương Hán Siêu cho triều đình, nhưng mãi đến năm 1308 ông mới được Vua Trần Anh Tông bổ làm Hàn lâm học sĩ. Từ đó, qua các đời vua Trần ông giữ chức Hành khiển, rồi Tham tri chính sự. Từng giữ các chức: Hàn lâm học sĩ, Hành khiển, Hữu ty lang trung, Tả ty lang trung, Thượng thư và sau khi mất ông được hai vua Trần truy tặng chức Thái bảo rồi Thái phó. Có thể nói sự nghiệp Trương Hán Siêu chủ yếu gắn liền với việc xây dựng, phát triển đất nước trải bốn đời vua Trần, được triều đình hết mực kính trọng, như sách "Đại Việt sử ký toàn thư" có viết: "Nhà vua chỉ gọi ông là thầy chứ không gọi tên".
Là người có học vấn sâu rộng, chính trực, phản bác mê tín dị đoan, cùng với chính sự thì Trương Hán Siêu còn có những đóng góp quan trọng về văn hóa, mà nổi bật là những áng văn chương lưu lại hậu thế. Ngoài bài "Dục Thúy sơn", ông còn là tác giả một số tác phẩm khác, đặc biệt là kiệt tác "Bạch Đằng giang phú" (Phú sông Bạch Đằng) trữ tình và đầy hào khí, với tâm thế một lữ khách lãng du đắm chìm cảnh sắc thiên nhiên kỳ diệu và dòng lịch sử oanh liệt: "Giương buồm giong gió chơi vơi/ Lướt bể chơi trăng mải miết/ Sớm gõ thuyền chừ Nguyên, Tương/ Chiều lần thăm chừ Vũ Huyệt/ Cửu Giang, Ngũ Hồ, Tam Ngô, Bách Việt/ Nơi có người đi đâu mà chẳng biết/ Đầm Vân Mộng chứa vài trăm trong dạ cũng nhiều,/ Mà tráng chí bốn phương vẫn còn tha thiết".

NSND Mai Thủy trình bày bài thơ “Dục Thúy Sơn” của Trương Hán Siêu trong đêm thơ Nguyên tiêu Ất Tỵ 2025 ở Hoa Lư, với hình ảnh minh họa núi Non Nước. Ảnh: PH
Và tại dòng sông lịch sử Bạch Đằng, những câu chuyện hào hùng "Trùng Hưng nhị thánh bắt Ô Mã", "Ngô chúa phá Hoằng Thao" được sống lại thật sinh động dưới ngòi bút tài tình của Trương Hán Siêu, ngỡ như những trận chiến xa xưa đang diễn ra trước mắt: "Kìa: Tất Liệt thế cường, Lưu Cung chước dối/ Những tưởng gieo roi một lần/ Quét sạch Nam bang bốn cõi!/ Thế nhưng: Trời cũng chiều người,/ Hung đồ hết lối/ Khác nào như khi xưa:/ Trận Xích Bích quân Tào Tháo tan tác tro bay/ Trận Hợp Phì, giặc Bồ Kiên hoàn toàn chết trụi".
"Bạch Đằng giang phú" khép lại bằng hai câu xúc động mang triết lý sâu xa và tầm nhìn lịch sử sâu rộng của một nhà văn hóa lớn:
Giặc tan muôn thuở thanh bình
Bởi đâu đất hiểm, cốt mình đức cao.
Xuất hiện từ thời Chiến Quốc (năm 403 đến 221 trước Công nguyên) phú trở thành loại hình văn học tiêu biểu bậc nhất thời nhà Hán. "Hán phú" và "Đường thi" không chỉ ảnh hưởng sâu rộng trong đời sống sáng tác ở Trung Quốc mà còn lan tỏa ở nhiều nước Đông Á. Thể phú xuất hiện ở nước ta hơi muộn nhưng cũng đạt những thành tựu quan trọng qua các trước tác nổi tiếng như "Cư trần lạc đạo phú" của Trần Nhân Tông, "Lam Sơn Lương thủy phú" của Lê Thánh Tông, "Ngọc tỉnh liên phú" của Mạc Đĩnh Chi, "Chí Linh sơn phú" của Nguyễn Mộng Tuân, "Xương Giang phú" của Lý Tử Tấn, "Tụng Tây Hồ phú" của Nguyễn Huy Lượng,… và tất nhiên "Bạch Đằng giang phú" của Trương Hán Siêu là một trong những đỉnh cao.
Ngoài hai bài "Dục Thúy sơn" khắc thạch và "Bạch Đằng giang phú", Trương Hán Siêu còn để lại các bài thơ: "Cúc hoa bách vịnh" (Vịnh hoa cúc còn 4 bài), "Hóa Châu tác" (Thơ làm ở Hóa Châu), "Quá Tống đô" (Qua kinh đô nhà Tống) và 2 bài văn xuôi "Khai Nghiêm tự bi ký" (Văn bia chùa Khai Nghiêm) và "Dục Thúy sơn linh tế tháp ký" (Bài ký tháp linh tế núi Dục Thúy). Ngoài ra, ông còn có hai quyển "Hoàng triều đại điển" và "Hình thư" soạn chung với Nguyễn Trung Ngạn, bài biểu "Tạ trừ Hàn lâm viện trực học sĩ" được dẫn trong "Đại Việt sử ký toàn thư" và "Kiến văn tiểu lục" nhưng hiện chưa tìm thấy.