Lẽ sống của nhà văn - nhà báo Bùi Nguyên Khiết
Đêm ấy, cuối năm 1976.
Gió mùa đông bắc tràn về, trời rét đậm kèm theo mưa phùn. Tuấn ngồi soạn bài chuẩn bị cho tuần sau dự hội thi giáo viên dạy giỏi cấp tỉnh. Từng cơn gió rít lên luồn qua khe cửa làm buốt lạnh thấu đến tận xương. Tuấn bật dậy, khoác tấm áo mưa đi xuống nhà bếp tập thể, lấy lên mấy khúc củi to để nhóm đống lửa cạnh bàn làm việc. Hẳn là khuya lắm rồi, liếc nhìn chiếc đồng hồ Poljot cà tàng đã chỉ quá mười hai giờ đêm, Tuấn cố vẽ nốt phần bài tập để chứng minh các cặp góc bằng nhau rồi đi ngủ.

Minh họa: Lê Tâm.
Bỗng có ánh đèn pin chiếu xiên qua cánh cửa bằng phên nứa. Sau mấy tiếng gõ cạch cạch là tiếng ai đó khô khốc, vừa đủ nghe:
- Mau mở cửa cho tớ vào với! Ngoài trời rét lắm cậu ạ, có mở không thì bảo?
Tuấn hỏi lại:
- Ai đấy ?
Người khách trả lời gọn lỏn:
- Khiết!
Nhận ra người quen, Tuấn vội vàng mở cửa mời anh vào ngồi sưởi cho đỡ rét. Bước vào nhà, anh cởi cái áo bạt ướt sũng vừa nói như tìm kiếm một sự thông cảm nào đó:
- Tớ biết cậu về dạy học ở trường này lâu rồi, hôm nay mới vào thăm được. Đêm nay tớ ở đây với cậu.
Tuấn gãi đầu nói với Khiết:
- Chẳng mấy khi anh vào đây chơi. Giữa đêm hôm khuya khoắt lại mưa dầm, gió bấc thế này chẳng có gì nghênh tiếp. Ngại quá đi mất!
Vẫn cái giọng cười khô pha chút hóm hỉnh của Khiết nhưng thân tình anh em:
- Ai dạy cậu ăn nói khách sáo thế hả? Cậu giúp tớ lấy hộ trong túi treo gần khẩu súng, tiện thể có bếp than, nướng lên mình “liên hoan” mừng ngày hội ngộ!
Tuấn mở cái túi xắc anh vẫn thường đeo vắt chéo qua cổ. Trong túi có hai ngăn, một ngăn đựng đạn đi săn và cuốn sổ ghi chép cùng với cây bút chì, còn ngăn kia là ba củ sắn. Đây chính là món quà quý anh bảo khao. Hai anh em vừa nướng sắn vừa hàn huyên hết chuyện nọ sang chuyện kia.
Khiết sinh năm 1943, hơn Tuấn bảy tuổi, người cao tầm thước vừa phải, nước da bánh mật. Mỗi khi có chuyện vui, anh cười môi trên tạo thành một đường cong vặn ngược. Là giáo viên cấp hai khoa xã hội, lên mạn ngược hành nghề gõ đầu trẻ từ những năm đầu sáu mươi. Anh đã từng dạy học ở các vùng thuộc huyện Bắc Hà, Bát Xát, Sa Pa và mới chuyển về trường cấp hai Duyên Hải, thị xã Lào Cai được vài năm. Đầu năm 1971, Tuấn đang thực tập sư phạm tại trường cấp hai Cốc Lếu mới có dịp làm quen khi anh ghé qua thăm bạn bè đồng nghiệp. Cuối năm ấy, Tuấn tốt nghiệp trung cấp sư phạm được phân công lên vùng cao dạy học, cũng từ đó anh em ít gặp nhau. Sau này thường gặp lại anh trong các kỳ học chỉnh huấn hè cho giáo viên. Tuấn thích tính tình của Khiết vì anh có duyên nói chuyện hài trong làng giáo, nghe cũng rất ấn tượng.
Pha lại ấm trà mới, Tuấn mời Khiết. Cầm chén nước đưa lên miệng rồi Khiết đặt xuống chưa uống vội.
Châm điếu thuốc lá rít một hơi, bất chợt anh khẽ hỏi:
- Chuyện vợ con của cậu thế nào rồi? Nếu chưa có vợ thì học tập kinh nghiệm của tớ đây này!
Tuấn chưa kịp trả lời thì anh bật khẩu nấc liên thanh xen lẫn điệu cười khoái chí:
- ... Lấy được vợ xấu có nhiều tiện lợi cậu ạ! Vợ xấu khỏi phải mất công trông coi, đi đâu bao nhiêu ngày cũng yên tâm, chẳng ma nào nó trêu ghẹo cả. Tớ chỉ cần cô vợ biết điều ăn, điều ở, biết đẻ cho tớ vài đứa con, trai gái gì cũng được, sau này giúp chồng dạy bảo con cái nên người…Thế là hạnh phúc lắm rồi!
Biết anh đang nói hài hước chuyện lấy vợ nhưng Tuấn vẫn thích nghe vì ẩn chứa bên trong nhiều điều bổ ích cần thiết cho cuộc sống. Tiếng mấy con gà gáy sang canh cắt ngang câu chuyện của hai anh em.
Khiết móc túi lấy đồng hồ xem, anh bảo với Tuấn:
- Hơn hai giờ sáng rồi đấy! Cậu đi ngủ một lát cho đỡ mệt, sớm dậy còn lên lớp dạy học. Tớ chuyển sang nghề làm báo, viết văn cũng đỡ gò bó giờ giấc hơn...!
Tuấn mời anh cùng lên giường nằm nói chuyện, ai buồn ngủ thì ngủ.
Khiết nói như ra lệnh:
- Bây giờ cậu ngủ, tớ phải tranh thủ viết một lúc, có mấy chi tiết lúc đi săn trong rừng mới nghĩ ra. Hay lắm, tớ phải ghi chép đã, để lại khi về nhà vợ con quấy rối lằng nhằng sợ quên mất không viết nổi, nếu không quên cũng ngại viết. Với lại tớ có nằm cạnh thì cậu cũng không thể ngủ được, người tớ hôi lắm, chỉ có vợ tớ quen với mùi đặc biệt này, thậm chí còn thích ngửi. Tớ bây giờ có thói quen ngủ ngồi, vừa làm vừa ngồi ngủ tại chỗ. Cậu ngủ đi, không được quấy rầy tớ đâu đấy!
Tuấn lấy thêm ít củi để anh đốt sưởi rồi lên giường đắp chăn nằm. Tưởng quá giấc khó ngủ nhưng rồi thiếp đi lúc nào không biết.
Mấy tiếng ho của Khiết làm Tuấn tỉnh giấc. Nhẹ nhàng chui ra khỏi chăn, rón rén đến gần bên anh, Tuấn thấy ngọn bút chì trong tay Khiết đang miệt mài cày xới trên mặt giấy. Mấy cái mũi tên ngoặt lên, ngoặt xuống chắp nối chỗ nọ vào chỗ kia, có lẽ anh suy nghĩ rất lung về cái gì đó đang viết.
Tuấn khẽ nói:
- Người ta làm là để sống, còn anh định làm để chết hay sao?
Nghe nói vậy, Khiết khoe luôn với Tuấn về tác phẩm “Định nghĩa về câu” mà anh đang viết nháp:
- Tớ viết câu chuyện trong nghề dạy học của chúng mình đấy! Nói về tấm gương miệt mài tự học tập của ông giáo Hàn, hiệu trưởng trường cấp 2…
Giáo viên trong trường phần đa ai cũng kính nể ông bởi đức tính tốt, phương pháp giảng dạy hay, cần cù, chịu khó. Trớ trêu, trong trường có một giáo viên là học trò cũ của ông chưa tâm phục, khẩu phục về chuyên môn của hiệu trưởng. Chính cô phát hiện ra một số kiến thức của người thầy giáo năm xưa đã “lão hóa” theo cùng tuổi tác. Cô giáo trẻ đã mạnh dạn trao đổi, xin ý kiến thầy. Lúc đầu ông Hàn cũng bối rối pha chút tự ái nghề nghiệp. Nhưng rồi cũng đến một ngày, tự đáy lòng mình ông thốt lên “Phong ba bão táp không bằng ngữ pháp Việt Nam. Đúng là có học có khác. Cũng từ đó, hiệu trưởng Hàn đã xây dựng cho chính ông và tập thể giáo viên trong trường quyết tâm tự học, tự rèn luyện, nâng cao chất lượng giảng dạy...
Khiết níu vai bảo Tuấn ngồi xuống bên cạnh nghe thử mấy câu kết:
- ... Tuổi tác không có tội gì cả, cái chính là tại mình không luôn học tập rèn luyện đó thôi... Một ngày trên thế giới bây giờ có biết bao công trình khoa học ra đời. Ta dừng một ngày học là lùi lại hàng năm...
Nghe Khiết đọc Tuấn gật đầu lia lịa cho dù bài “Định nghĩa về câu” đang là bản thảo viết tay bằng cây bút chì.
Bất chợt anh lại móc túi lấy đồng hồ xem giờ rồi thốt lên:
- Ái chà thế mà cũng sắp sáng, tớ cũng viết xong, cậu không được ngủ nữa đâu đấy! Anh em mình ngồi chơi nói chuyện. Đúng sáu giờ tớ về còn kịp đi làm!
Khiết hỏi tôi:
- Là giáo viên dạy các môn học tự nhiên, cậu có biết thứ tình cảm đặc biệt của vợ chồng con cua đồng như thế nào không?
Một câu hỏi thú vị khá bất ngờ. Cũng may Tuấn đã đọc được ở đâu đó rồi thì phải.
Tuấn cố nhớ để trả lời anh:
- Nếu như không nhầm, hình ảnh vợ chồng con cua có ở trong tiểu thuyết ... của nhà văn…thì phải. Đại ý: Những ngày con cua cái sinh nở, con cua đực có nhiệm vụ đi kiếm mồi và tự mình lột xác để làm thức ăn “nuôi vợ con”!
Không để Tuấn kể tiếp, Khiết vỗ mạnh vào đùi rồi nói:
- Đúng lắm! Cái hay chính là ở chỗ đó! Con đực lột xác…tớ cũng đang lột xác… Nói vui vậy chứ tớ đã làm được cái gì nên hồn cho vợ con đâu. Suốt ngày lang bang văn vở, báo chí thế này, có khi còn bị “người ta” mắng cho!!!
Khiết lại cười hiền hậu đưa hai bàn tay khô ráp, nắm chặt tay Tuấn nói lời tạm biệt:
- Anh em mình cũng có một đêm bên nhau, cậu mất ngủ với khách không mời mà đến nhưng chắc cũng vui lòng đấy chứ! Giờ thì cậu lo ăn sáng đi, rang cơm nhớ cho thêm quả trứng, còn có sức mà dạy học.
Chào cậu!
Bóng Khiết khuất dần trong màn sương sớm mùa đông. Sau này, Tuấn được điều chuyển đi nơi khác, anh em không có dịp gặp nhau nữa.
* * *
Không ngờ đêm ấy cũng là kỷ niệm tình cảm anh em lần cuối cùng của Khiết dành cho Tuấn… Đến cuối tháng 2/1979, Tuấn nhận được tin về anh nhưng là tin rất đau buồn. Bùi Nguyên Khiết đã anh dũng hy sinh vì cuộc chiến đấu bảo vệ Tổ quốc trên tuyến biên giới phía Bắc trong tư thế kiên cường của một chiến sỹ - nhà báo.
Mấy chục năm rồi Khiết mãi đi xa. Tuấn lúc nào cũng nhớ anh, nhớ tác phẩm “Định nghĩa về câu” của anh để lại ấn tượng sâu sắc hình ảnh ông giáo Hàn tự săn tìm - tự lột xác - tự hóa thân. Đã có lần Tuấn đọc bài “Sống gần Bùi Nguyên Khiết” của nhà văn Ma Văn Kháng, ông viết: “Ở nghề thầy Khiết là một giáo viên dạy giỏi... Anh lăn xả vào tìm hiểu thấu đáo cuộc sống... giống như những chuyến bay đi hút mật của con ong...”.
Tất cả những gì Khiết hái lượm được, anh chọn lọc lấy cái tinh túy nhất để lột xác, để hóa thân vào trang giáo án, vào những bài báo, vào những áng văn, dâng cho đời ngào ngạt những hoa thơm, trái ngọt. Đó chính là lẽ sống của nhà văn, nhà báo Bùi Nguyên Khiết.
----------------
Đã in trong tập sách “Dấu xưa”.