Lê Anh Phong và hành trình thơ tự vấn

Hồn thơ Lê Anh Phong khá đa mang đa sự. Trên tổng phổ đa thanh ấy, chủ âm vẫn là lời của chủ thể viết trăn trở suy tư về chính cái viết. Vừa biểu cảm vừa nghị luận, vừa duy lý vừa duy tình, tập 'Thơ chọn' mở ra một thi giới động cựa sinh ngữ, cồn cào sinh lộ...

Pri Prigogine - nhà bác học người Bỉ gốc Nga đoạt giải Nobel hóa học năm 1977 - từng nói, rằng bài học thật sự của nguyên lý bổ sung hiển nhiên là tính chất phong phú của thực tại nó vượt ra ngoài mọi ngôn ngữ, mọi cấu trúc logic, mọi lý giải khái niệm. Nói riêng về thơ, nhà thơ Chế Lan Viên cũng từng thành thực, rằng thực ra ông chưa hiểu hết thơ đâu, ông cũng có định nghĩa nhiều lần đấy, nói hẳn hoi viết hẳn hoi, nhưng lần này định nghĩa thì lần sau nắn lại, chỗ này định nghĩa thì chỗ khác bổ sung, nên vẫn cứ nghĩ tiếp nghĩ mãi…

Như một bất ngờ thú vị, những năm gần đây xuất hiện nhiều nhà thơ dùng thơ để nghị-luận-về-thơ, càng cho thấy thơ luôn được đặt vào tình thế tái định nghĩa, thơ luôn cựa quẫy để vượt biên về phía mới. Đó là các trường hợp như Hoàng Thụy Anh với thi tập “Người đàn bà sinh ra từ mưa”, Nguyễn Thị Thúy Hạnh với “Văn học vết thâm”, Minh Anh với “Một ngày từ bên trong”…, và đáng chú ý là Lê Anh Phong với tập “Thơ chọn” (NXB Hội Nhà văn, 2025).

Chân dung nhà thơ Lê Anh Phong.

Chân dung nhà thơ Lê Anh Phong.

Hồn thơ Lê Anh Phong khá đa mang đa sự. Trên tổng phổ đa thanh ấy, chủ âm vẫn là lời của chủ thể viết trăn trở suy tư về chính cái viết. Vừa biểu cảm vừa nghị luận, vừa duy lý vừa duy tình, tập “Thơ chọn” mở ra một thi giới động cựa sinh ngữ, cồn cào sinh lộ: “mải nghĩ về đám mây/ tôi trôi tôi trong chữ” (Hình dung); “đêm chập chờn giữa hoa và gió/ cúc sáng lặng thầm mơ giấc họa mi” (Đêm họa mi); “chúng ta tỉnh dậy từ ánh sáng/ con đường hiện dần trong tiếng khóc sơ sinh” (Bờ sáng); “bên kia vách đêm/ sông hát lên từ mơ hồ xa vắng/ nước thời gian cá quẫy ban mai” (Quê nhà); “có cánh chim bay trong miền lá rụng/ mang hương mùa/ vẽ những giấc mơ/ hoa” (Mặc khải); “đêm trở gió kể cho nhau chuyện cũ/ chợt âm vang ở phía con đường” (Viết ở đường biên)…

Có thể nói, thơ Lê Anh Phong là một nỗ lực không ngừng trong việc tự vấn thơ, một dạng phản tỉnh thi ca hướng nội, nhưng không co cụm trong cảm xúc cá nhân mà luôn vọng ra những khung trời rộng mở. Đó là thơ của một kẻ hành hương chữ nghĩa, với tâm thế khởi hành. Mỗi bài thơ là một lần đi xa, là một hành trình thể nghiệm. Điều này khiến cho thơ của anh không phải là một điểm dừng, mà là một bản đồ những cuộc rong ruổi. Mỗi thi ảnh đều mang tinh thần chuyển động: “cuộc gọi từ giấc mơ của gió/ con đường trong quầng sáng của hoa/ cây lớn lên giữa bao điều chộn rộn/ áo đêm cài lồng lộng khuy sen” (Bến gió); “nơi sáng tối/ phía phòng văn chật chội/ lấm láp câu thơ lặng lẽ chuyển mùa” (Nhớ phố). Chuyển động để kháng cự lại những thói quen chữ, để làm rã đông những định nghĩa, những mặc định về thơ.

Bất an với cánh đồng ký tự chật chội cỗi cằn, nơi "nhuộm màu người cứ na ná như nhau", nơi nói như nhà thơ Nguyễn Thị Thúy Hạnh là “những chữ cái đang già đi trong bóng tối”, Lê Anh Phong xác quyết "làm bạn với con đường để biết đi xa", tìm gặp chân trời tự do và ánh sáng, căng mẩy lộng lẫy mùa chữ mùa người. Không phải tỏ ra thức thời, không ảo cuồng duy ý chí, người thơ thành thật với rối bời nỗi đi. Vừa đi vừa ngoái lại, vừa tín niệm vừa hoài nghi, vừa mơ vừa thức, vừa trổ mầm vừa ngơ ngác, vừa tung tẩy vừa phân vân, vừa tụ vừa tan: “vườn mộng mị giấc hoa sinh nở/ run rẩy sắc màu rực rỡ hoang mang” (Viết ở ngôi nhà quái dị).

Phải vậy chăng mà rất nhiều đóa thơ trong đây cứ thảng thốt bung bật thành dấu hỏi: “chúng ta mang theo nhiều chìa khóa/ sao con đường vẫn tắc” (Con đường); “thao thiết chảy sông đều ra với biển/ sao đại dương không có phù sa” (Thư gửi biển); “câu thơ nào em gửi ở đám mây/ sao mây trắng cứ bay đi vội vã” (Nhớ phố); “vườn xưa cả gió đang thay lá/ cây lộng gió trời/ sao bóng lặng im” (Chào thiên niên kỉ mới); “đi và đến/ bao ga đời chộn rộn/ trăng cứ trôi thơ đợi ở ga nào” (Đêm họa mi); “sao chiếc cúc dự phòng nơi cuối áo/ cứ vu vơ lỗi hẹn với khuy cài” (Áo ai)…

Đây là một kiểu thơ vừa trữ tình vừa triết luận, nơi câu hỏi là cách chủ thể thơ đối thoại với thế giới. Những câu hỏi trong thơ Lê Anh Phong không giống với kiểu câu hỏi mang tính tu từ của thơ truyền thống (để than thân, để bộc lộ cảm xúc…), mà giống với tinh thần phản tư hiện sinh, nghi vấn về chính mình, về chính hành trình thơ. Những câu hỏi như mũi kim dò đường, để lần tìm ánh sáng trong một thế giới mịt mù biểu tượng.

Ở đây, chất nghị luận trong thơ không khô khan mà giàu xúc cảm, vì nó luôn vận hành trên nền của một tâm thế lữ hành, tâm thế lắng nghe - ghi nhận - hoài nghi - mơ tưởng: “thư gửi về nguồn dán con tem ký ức/ con chữ nào soi bóng phía trong veo/ sông hẹn biển/ biển không tan trong sóng/ cánh chim trời đang đổ bóng vào ai” (Bến gió).

Bìa cuốn “Thơ chọn” của Lê Anh Phong.

Bìa cuốn “Thơ chọn” của Lê Anh Phong.

Điểm đáng quý ở Lê Anh Phong là sự không che giấu nỗi bất an. Anh không tự bào chữa cho mình, không giấu giếm sự ngập ngừng, không cố làm ra vẻ tỉnh táo hay vượt thoát. Ngược lại, anh để mình trôi trong giấc mơ chữ nghĩa, trôi một cách có ý thức. Như vậy, thơ của anh không đánh lừa bằng niềm tin giả tạo, bằng sự kẻ cả tự đắc đóng khung chân lý, mà thành thật trong cả sự hồ nghi, kể cả khi vỡ mộng. Đây chính là vẻ đẹp của một trái tim đang đập, đang sống thơ và đang tự vấn từng khoảnh khắc.

Sức người thì có hạn, mà ngoài trời lại có trời, làm sao hết được bất an. Nếu thi sĩ Trần Dần từng "khóc những chân trời không có người bay/ lại khóc những người bay không có chân trời", hay nếu thi sĩ Trương Đăng Dung từng cảm thương người bay không đến được chân trời bởi "những bức tường những bức tường những bức tường" quái đản vô hình bủa vây ngáng trở, thì đến lượt thi sĩ Lê Anh Phong phấp phỏng lo âu người bay lỗi hẹn với chân trời bởi lực bất tòng tâm.

Đó là sự can đảm của kẻ nhận chân và cất lời về những giới hạn, và lấy chính giới hạn ấy làm áp lực và động lực để mộng tưởng tiếp. Như một mặc khải, “bút vẫn cài bên ngực trái thi nhân”, “mực vẫn ấm/ viết nên ngày tháng mới/ nơi câu thơ chạm vào bông gió/ chạm giọt sương lại lặng lẽ lên đường” (Ban mai). Con đường mà thơ Lê Anh Phong chọn là “con đường/ lộng gió/ thanh tân” (Gọi xanh). Bởi, như thi sĩ Phạm Phú Hải viết: “có bàn chân dài hơn con đường/ nên chân trời là những đốt xương”; hay như thi sĩ Nguyễn Bình Phương xác quyết: “một người mơ thấy gió/ người ấy nôn nao thổi qua những bãi bờ”, và “cái chết phục kích suốt chân trời/ nhưng chân trời không phải là cái chết".

Với Lê Anh Phong, “đức hạnh của thơ" nằm trên cung đường của gió. Đức hạnh của người thơ nằm ở câu hỏi bỏ ngỏ giữa giấc mơ thơ. Ánh sáng của giấc mơ thơ đủ cho rất nhiều ô cửa. Và, “bên ô cửa ký tự/ con đường hiện ra trong ánh sáng” (Từ thư viện).

Xuyên suốt thơ Lê Anh Phong, có thể thấy các biểu tượng như gió, con đường, ánh sáng, hoa, mây, biển… luôn luân phiên xuất hiện, không chỉ như phong cảnh mà như ẩn dụ về hành trình tinh thần. Gió không chỉ là chuyển động vật lý, mà là luồng sinh khí của sáng tạo, là giấc mơ, là niềm bất an và cũng là lực sống. Con đường tượng trưng cho quá trình truy cầu, một sự dịch chuyển không ngừng - đôi khi hoài nghi, lạc hướng, nhưng không bao giờ đứng yên. Ánh sáng là chân trời, là mặc khải, là nơi thi ca có thể “chạm vào bông gió”. Ba biểu tượng chính này quyện vào nhau tạo thành một cấu trúc “tự sự siêu hình” trong thơ, lúc này, người thơ như kẻ tìm đường giữa gió và ánh sáng.

Tập “Thơ chọn” của Lê Anh Phong không chỉ là sự kết tụ của nhiều năm lao động chữ nghĩa, mà còn là dấu vết của một hành trình sống, mơ, và tự hiểu mình bằng thi ca. Trong thời đại mà ngôn từ dễ bị tiêu dùng đến cạn kiệt, thơ anh là một nỗ lực giữ cho “mực vẫn ấm”, giữ cho chữ chưa khô mộng. Thơ anh không huyên náo, nhưng lại ít nhiều có khả năng làm lung lay bất an quán tính thơ dễ dãi cũ mòn, nơi nói như thi sĩ Xuân Diệu xưa là chữ “chỉ lặng chuồi theo dòng cảm xúc/ như thuyền ngư phủ lạc trong sương”.

Hoàng Đăng Khoa

Nguồn VNCA: https://vnca.cand.com.vn/doi-song-van-hoa/le-anh-phong-va-hanh-trinh-tho-tu-van-i778889/
Zalo