Lặng lẽ vó ngựa Tuy An
Từng là vùng nuôi ngựa tiến vua phục vụ hầu hết công việc vận chuyển hàng hóa ở vùng Nam Trung Bộ và Tây Nguyên, Phú Yên một thời nổi tiếng với nhiều danh xưng và cống hiến. Nhưng rồi trên những gò đồi ở Tuy An đã chẳng còn mấy ai nuôi ngựa, dù hằng năm cuộc đua ngựa ở Gò Thì Thùng vẫn được tổ chức.
Dấu xưa xe ngựa
Chiều ngược gió, bỗng nghe thấy tiếng lọc cọc, tiếng “họ! họ!” lạ lẫm và tiếng thở phì phò của chú ngựa nhỏ trên con đường chằng chịt những vệt bánh xe, lại nhớ một thời xe thổ mộ như một nét rất riêng của xứ sở này. Một thời quá vãng cho vó ngựa Tuy An (Phú Yên) với những chiếc xe thổ mộ huy hoàng giờ chỉ còn lại tiếng thì thầm thưa vắng.
Trước đây, khi đường giao thông gập ghềnh, ngựa là phương tiện quan trọng để giúp người dân huyện Tuy An di chuyển, thồ hàng hóa, nông sản từ ruộng dưới thung lũng hay nương rẫy trên núi về nhà. Những chú ngựa thồ hay xe thổ mộ băng qua những con đường lầy lội, trơn trượt, lởm chởm đá xuống đồng bằng để mua bán nông sản.
Người xứ Nẫu thường đi lại bằng ngựa, người cưỡi, thồ hàng, kéo xe... khắp các vùng Tuy Hòa, Tuy An, Sơn Hòa, Đồng Xuân... (Phú Yên) đến vùng Vân Canh, An Lão, An Nhơn, Phù Cát... (Bình Định) hay Vạn Giã, Ninh Hòa (Khánh Hòa), vó ngựa thường lóc cóc trong nắng sớm mưa chiều.
Một thời, danh tiếng ngựa Phú Yên vang bóng khắp vùng Nam Trung Bộ và Tây Nguyên, được so sánh với ngựa Bắc Hà. Sử sách còn ghi lại, anh em nhà Tây Sơn đã tuyển chọn ngựa ở Phú Yên để hình thành những đoàn Sảo Mã oai hùng, làm nên bao chiến công vang dội, đỉnh cao là chiến thắng Ngọc Hồi - Đống Đa đánh tan 29 vạn quân Thanh mùa xuân Kỷ Dậu 1789. Nhiều đời vua dưới triều Nguyễn từ Minh Mạng đến Thiệu Trị cũng đều tuyển chọn ngựa ở Phú Yên để sung vào chuồng ngựa ngự dụng, nhất là ngựa có sắc trắng. Vua Minh Mạng cũng cho vời về kinh đô hai người dân Phú Yên nuôi ngựa giỏi để hướng dẫn cách nuôi tại các chuồng ngựa ngự dụng.
Bảng lảng không khí vừa kiêu sang, vừa quen thuộc một thuở ngựa xe qua núi, qua đèo thời trấn biên Nam Trung Bộ. Dọc dài vùng bán sơn địa này, người dân vẫn còn nuôi, kinh doanh và sử dụng ngựa thồ thường ngày, nhưng cũng chỉ họa hoằn lắm. Ông Võn Văn Chiến (69 tuổi, thôn Xuân Thành, xã An Xuân, huyện Tuy An) ngậm ngùi mường tượng về những ngày xưa cũ, cách chừng 30-40 năm trở về trước. “Hồi trước, dân mình đi đâu cũng gặp ngựa làm ăn đủ chuyện, làng nào ở Phú Yên cũng nuôi ngựa cả bầy. Đàn ông, đàn bà đều cưỡi ngựa, như người ta đi Honda bây giờ. Hồi trước thì tải hàng ra trận, sau giải phóng (1975) ngựa vùng này vẫn còn dùng nhiều trong việc kéo lương thực cho các kho nhà nước. Rồi kéo gỗ, vật liệu xây nhà, xây kênh mương, hay ngựa đóng xe chở khách, chở hàng ra chợ… tất tần tật đều dùng ngựa. Giờ thì....!”, ông Chiến thủ thỉ. Gần 60 năm nuôi ngựa ở xứ này, ông đã chứng kiến không ít những con ngựa tốt nhất, dũng mãnh nhất, hay cả những buồn vui thăng trầm của xứ ngựa.
Trước kia, khắp vùng Nam Trung Bộ từ Quảng Ngãi tới Khánh Hòa, xe ngựa được xem là một trong những phương tiện di chuyển công cộng giống như xe lam, xe xích lô, xe kéo tay khác. Những địa danh nổi tiếng về ngựa xe như ngã ba Phú Lâm (Tuy Hòa) từng được gọi là Ngã ba Xe Ngựa, ngược lên Hòa Bình thì có Xóm Ngựa, qua Hòa Đồng thì Bến Ngựa; bến xe cạnh chợ Tuy Hòa cũng từng được gọi là Bến Xe Ngựa… Những vùng Đập Đá (An Nhơn, Bình Định) địa danh Ngã ba Bến Xe Ngựa vẫn còn ghi trên nhiều bảng hiệu. Xe ngựa thường chở những bà, những chị gồng gánh đi chợ, hay bọn học trò nghịch ngợm, một gã trai xa quê đi tha hương.
Cái thú ngồi xe ngựa là nghe tiếng lóc cóc từ miếng sắt đóng dưới chân ngựa và chiếc xe đi chậm rãi, lắc lư theo một nhịp điệu thú vị, băng chầm chậm qua những cánh đồng, qua những gò đồi hay một con dốc nhỏ để thấy được chút vui rộn ràng trong lòng. Một chiếc xe ngựa thông thường chỉ chở được 5 đến 6 người cùng với quang gánh, thúng mủng, hay tất tật những gì tương đương mà sức ngựa có thể mang. Xe thổ mộ rất quan trọng trong việc chở hàng và chở người, vì các phương tiện giao thông đường bộ chưa phát triển. Trên khắp nẻo đường vào mỗi sáng tinh sương hay mỗi chiều về, tiếng “lốc cốc, lốc cốc” đều đều của vó ngựa, hòa với tiếng lục lạc vang leng keng, tiếng hô “họ, họ” điều khiển ngựa của người xà ích... là những âm thanh cuộc sống quen thuộc của nhiều người.
Từ chỗ lao động mang lại thu nhập nuôi sống gia đình người nuôi, ngựa đã trở thành người bạn thân tình của giới nuôi ngựa. Ngựa thường được chăm sóc rất kỹ lưỡng, vì muốn có sức để làm lâu ngày thì cần phải bồi dưỡng cho ngựa như lúa ngâm, gạo lức, mật đường, cám tinh và cỏ thơm. Những hôm nào có hàng chạy, chủ phải dậy sớm cho ngựa ăn no nê và chuẩn bị thức ăn dự trữ cho ngựa ăn dọc đường. Tuy vậy, nuôi ngựa nhàn hơn các loại gia súc khác. Ngựa ăn uống đơn giản, chỉ cần có cỏ tươi là thứ có rất nhiều ở An Xuân, nước bột gạo hoặc nước mật đường. Mỗi ngày tắm ngựa, chải lông một lần. Ngựa cũng rất ít bệnh tật.
Bên cạnh việc chăm sóc, bảo đảm sức khỏe cho ngựa, người chủ nuôi cần có kỹ năng huấn luyện để bảo đảm an toàn cho người và ngựa. Qua một thời chinh chiến, ngựa ở đây được dùng nhiều để kéo, cưỡi, thồ và là nỗi đam mê của những kẻ đắm tình các giải đua mùa xuân… Nhưng rồi, qua bao thăng trầm của cuộc sống, cùng với sự phát triển của kinh tế và giao thông, ngựa thồ và những chiếc xe thổ mộ không còn nhìn thấy ở nhiều nơi như xưa nữa, kể cả những làng xã nơi thôn quê. Và người nuôi ngựa nay cũng đã vắng nhiều hơn xưa.
Một thời, danh tiếng ngựa Phú Yên vang bóng khắp vùng Nam Trung Bộ và Tây Nguyên, được so sánh với ngựa Bắc Hà.
Thăng trầm cùng ngựa
Ngày trước cách đây chừng độ 30 năm, xã An Xuân (huyện Tuy An) vẫn nổi tiếng nuôi ngựa. Thôn Xuân Thành của ông Chiến có tới gần 50 hộ nuôi ngựa với hàng trăm con. Những lái buôn mang ngựa đi khắp các vùng Nam Trung Bộ, Tây Nguyên để bán. Ngựa nhỏ khoảng 6 tháng tuổi có giá khoảng 10 triệu đồng/con, ngựa từ 3 năm tuổi đã chạy thồ, kéo xe được 15-20 triệu đồng/con tùy tướng tá “đẹp, xấu”. Người dân trong xã sắm ngựa thồ để mưu sinh. Ai cần gì thồ nấy, từ việc nhỏ nhất như thồ sạn cát xây mồ mả ông bà, đến việc lớn hơn như thồ cây giống dự án trồng rừng phủ xanh đất trống đồi trọc và thồ luôn trụ phát sóng các trạm điện thoại. Ngựa thồ đủ loại, có con mã đại (ngựa lai to) thồ đến 200kg, ngựa cỏ yếu sức chỉ thồ 100kg.
“Ngựa nhận dạng chủ giỏi lắm, nếu không phải chủ, nếu đến gần ép ngựa làm việc nó sẽ trở chứng, có lúc còn bị ngựa đá đau thấu xương”, ông Chiến chia sẻ. Nói về cực nhọc nghề nuôi ngựa thồ, ông Phạm Hữu Thanh mau miệng kể, thường những nơi xe tải chịu thua chủ công trình mới đặt hàng cho ngựa thồ. Người và ngựa cùng mưu sinh nên cùng chia khổ với ngựa. Lúc đi lên thì ngựa thồ hàng, khi xuống ngựa đi không, đôi khi muốn leo lên lưng ngựa cưỡi cho đỡ mỏi chân nhưng thấy ngựa ngày nào cũng thồ hàng cực nhọc nên chủ ngựa cũng ráng đi bộ cùng ngựa. Ông Thanh cho hay: “Mỗi chuyến thồ họ trả 200.000-300.000 đồng tùy xa gần. Xong chủ này đến chủ khác rước ngựa thồ cây giống trồng rừng kinh tế. Nhờ sức ngựa rừng mới xanh được”.
Phú Yên là xứ nổi tiếng một thời với nghề nuôi ngựa, vận tải bằng xe ngựa. Nhưng nay số người theo nghề đã giảm đáng kể bởi nhiều lý do. Bây giờ, đường sá đã thông thương, thuận tiện, nhiều loại phương tiện cơ giới như xe máy, xe tải nhỏ đã thống trị công việc chuyên chở hàng hóa, vì thế bóng dáng ngựa thồ cũng dần thưa vắng. Cuộc sống đổi thay, nhiều người muốn níu kéo nghề nuôi ngựa nhưng “lực bất tòng tâm”. Giờ thì cả An Xuân (huyện Tuy An) còn lại đúng 3 hộ nuôi ngựa là ông Chiến, ông Phạm Hữu Thanh và ông Nguyễn Công Thành. Chăm chú ngựa trong chiếc chuồng nhỏ, ông Võ Văn Chiến vẫn đăm chiêu đầy tiếc nuối. Có lần ông đã định “giải nghệ”, nhưng bán đi con ngựa là một điều khó khăn. Vì nó đã gắn bó với cả gia đình lâu rồi, ông đã xem nó như là một thành viên trong gia đình.
Cách trung tâm thị trấn Chí Thạnh (Tuy An) về hướng tây 15km, cao nguyên Gò Thì Thùng (xã An Xuân) có độ cao khoảng 400m. Nơi này hằng năm có lễ hội đua ngựa mùa xuân thu hút hàng chục nghìn người từ nhiều nơi đến theo dõi. Những chú ngựa đua nhỏ thó, những nước đua không chuyên nghiệp nhưng đó chính là nét mộc mạc và độc đáo của Hội đua ngựa ở Gò Thì Thùng. Các kỵ sĩ chính là những nông dân chân lấm tay bùn. Kỵ sĩ trẻ nhất trong hội đua khoảng 18 tuổi và người lớn nhất đã trên 60 tuổi, kể cả những người có thâm niên 30, 40 năm đua ngựa. Như chính ông Võ Văn Chiến dù đã ngoài gần 70 nhưng mấy năm trước vẫn tham gia đua ngựa. Và để năm nào ngựa An Xuân cũng sải bước ở địa đạo Gò Thì Thùng cần lắm những tấm lòng như ông Chiến, ông Thanh hay ông Thành. Để vùng đất An Xuân được nhiều người biết đến và tìm về với Hội đua ngựa truyền thống mùng 9 Tết hằng năm.
Ngoài việc một năm ngựa nuôi được đưa ra thi tại Gò Thì Thùng, liệu có cách nào khác để những chú ngựa được cống hiến thêm và những người nuôi ngựa cũng có nguồn thu nhập từ ngựa? Nói về điều ấy, ông Chiến ưu tư: “Nghề nuôi ngựa, hay xe ngựa có lẽ cần được khôi phục lại như những ngành nghề khác. Dù lạc hậu trong xã hội phát triển nhưng lớp trẻ sau này cần phải biết và tự hào rằng, ở đất Phú Yên một thời xe ngựa là phương tiện vận tải hữu dụng dùng để dâng lên vua chúa. Nếu được, chính quyền các cấp có thể tổ chức nghiệp đoàn xe ngựa phục vụ lễ hội, du lịch chẳng hạn, điều mà ở nhiều nơi như phía Bắc, hay ở Đà Lạt đang làm”.
Những năm gần đây, nhiều đàn ngựa ở An Xuân, An Hiệp đang giảm đi. Nhiều người nuôi ngựa đều trăn trở, không biết vài năm nữa, An Xuân có còn ngựa để phục vụ hội đua truyền thống và sợ rằng sẽ không lâu nữa, hình ảnh những chiếc xe ngựa sẽ đi vào dĩ vãng, tiếng vó ngựa như tiếng thì thầm chỉ còn vang vọng trong quá khứ.
Qua bao thăng trầm của cuộc sống, cùng với sự phát triển của kinh tế và giao thông, ngựa thồ và những chiếc xe thổ mộ không còn nhìn thấy ở nhiều nơi như xưa nữa, kể cả những làng xã nơi thôn quê. Và người nuôi ngựa nay cũng đã vắng nhiều hơn xưa.