Làm rõ thêm căn cứ ban bố tình trạng khẩn cấp để bảo đảm tính thống nhất
Thẩm tra dự thảo Luật Tình trạng khẩn cấp, Thường trực Ủy ban Quốc phòng, An ninh và Đối ngoại của Quốc hội đề nghị việc xây dựng các căn cứ để ban bố tình trạng khẩn cấp phải đáp ứng các yếu tố khách quan và chủ quan, vượt ra ngoài cấp độ 3 phòng thủ dân sự; đồng thời cũng phải có tiêu chí để tránh áp dụng tùy tiện, gây ảnh hưởng đến phát triển kinh tế-xã hội và đời sống nhân dân.
Tiếp tục Phiên họp thứ 43, chiều 14/3, tại Nhà Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về dự án Luật Tình trạng khẩn cấp. Phó Chủ tịch Quốc hội, Thượng tướng Trần Quang Phương điều hành nội dung thảo luận.
Tăng tính chủ động ứng phó, khắc phục kịp thời trường hợp xảy ra tình huống khẩn cấp
Thay mặt cơ quan chủ trì soạn thảo, Đại tướng Nguyễn Tân Cương, Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam, Thứ trưởng Quốc phòng cho biết, mục đích ban hành Luật nhằm bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ và nâng cao hiệu lực, hiệu quả của hệ thống pháp luật về tình trạng khẩn cấp; tạo lập cơ sở pháp lý cho thi hành pháp luật nhằm tăng cường tính chủ động trong việc ứng phó, khắc phục kịp thời, hiệu quả trường hợp xảy ra tình huống khẩn cấp, góp phần bảo vệ Nhà nước và nhân dân, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.

Đại tướng Nguyễn Tân Cương, Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam, Thứ trưởng Quốc phòng. (Ảnh: DUY LINH)
Dự thảo Luật Tình trạng khẩn cấp gồm 6 chương, 42 điều, quy định về nguyên tắc, trình tự, thủ tục, thẩm quyền ban bố, công bố, bãi bỏ tình trạng khẩn cấp; các biện pháp được áp dụng trong tình trạng khẩn cấp; tổ chức thi hành Nghị quyết ban bố, Lệnh công bố tình trạng khẩn cấp; trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong tình trạng khẩn cấp.
Theo Đại tướng Nguyễn Tân Cương, nội dung dự thảo Luật tập trung vào 2 chính sách đã được Chính phủ thông qua tại Nghị quyết số 118/NQ-CP ngày 3/8/2024 và báo cáo Quốc hội bổ sung vào Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh tại Nghị quyết số 55/2024/QH15 ngày 28/10/2024, gồm: (1) Biện pháp áp dụng trong tình trạng khẩn cấp, thẩm quyền tổ chức, chỉ đạo, điều hành và quyết định áp dụng các biện pháp đặc biệt của một số chủ thể trong tình trạng khẩn cấp; (2) Các biện pháp hỗ trợ doanh nghiệp; cứu trợ, hỗ trợ người dân ứng phó trong và sau tình trạng khẩn cấp.
Trình bày báo cáo thẩm tra, Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng, An ninh và Đối ngoại của Quốc hội Lê Tấn Tới nêu rõ, Thường trực Ủy ban nhất trí về sự cần thiết ban hành Luật với những căn cứ chính trị, pháp lý, thực tiễn như đã nêu trong Tờ trình của Chính phủ và cho rằng, việc ban hành Luật nhằm kịp thời khắc phục những bất cập, hạn chế trong thực tiễn thi hành pháp luật về tình trạng khẩn cấp, nhất là từ khi diễn ra đại dịch Covid-19.
Về thẩm quyền, trình tự, thủ tục ban bố, công bố tình trạng khẩn cấp (Điều 9), cơ quan thẩm tra đề nghị nghiên cứu, làm rõ thêm về căn cứ ban bố tình trạng khẩn cấp để bảo đảm tính thống nhất. Việc xây dựng các căn cứ để ban bố tình trạng khẩn cấp phải đáp ứng các yếu tố khách quan và chủ quan, vượt ra ngoài cấp độ 3 phòng thủ dân sự; đồng thời cũng phải có tiêu chí để tránh áp dụng tùy tiện, gây ảnh hưởng đến phát triển kinh tế-xã hội và đời sống nhân dân.

Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng, An ninh và Đối ngoại của Quốc hội Lê Tấn Tới. (Ảnh: DUY LINH)
Có ý kiến đề nghị rà soát thẩm quyền đề nghị của Thủ tướng Chính phủ tại khoản 1 vì Hiến pháp chỉ quy định Ủy ban Thường vụ Quốc hội có quyền quyết định ban bố tình trạng khẩn cấp mà không quy định thẩm quyền của Thủ tướng Chính phủ; ý kiến khác đề nghị làm rõ thêm các căn cứ, cơ sở, quy trình để các bộ hoặc Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh đề nghị Thủ tướng Chính phủ đề nghị Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban bố tình trạng khẩn cấp; trường hợp nào thì ban bố tình trạng khẩn cấp ở địa phương, trường hợp nào là trên phạm vi cả nước, nếu ở địa phương thì khi nào ở cấp tỉnh, khi nào ở cấp thấp hơn...
Về các biện pháp được áp dụng trong tình trạng khẩn cấp, Thường trực Ủy ban Quốc phòng, An ninh và Đối ngoại cho rằng, quy định về các biện pháp được áp dụng trong tình trạng khẩn cấp là rất quan trọng, tạo tính thống nhất để áp dụng khi xảy ra tình trạng khẩn cấp; dự thảo Luật quy định 4 nhóm biện pháp áp dụng tương ứng với 4 dạng tình trạng khẩn cấp. Tuy nhiên, việc phân chia biện pháp áp dụng này đối với các loại hình tình trạng khẩn cấp (4 loại) lại khác với cách phân loại tình trạng khẩn cấp tại Điều 2 (giải thích từ ngữ), do đó đề nghị nghiên cứu thiết kế lại cách thức phân loại về tình trạng khẩn cấp để bảo đảm tính thống nhất.
Thường trực Ủy ban cơ bản tán thành với quy định ủy quyền cho Thủ tướng Chính phủ: Trong trường hợp cần thiết, Thủ tướng Chính phủ có thể áp dụng các biện pháp mà pháp luật hiện hành chưa quy định. Tuy nhiên, để bảo đảm bảo phù hợp với Hiến pháp, đề nghị bổ sung nội dung các biện pháp này phải phù hợp với các nguyên tắc quy định tại Điều 3, đồng thời cần tiếp tục làm rõ thêm về thời điểm hiệu lực, đối tượng, các biện pháp đặc thù này để bảo đảm khả thi...
Dự thảo luật đủ điều kiện trình Quốc hội xem xét, cho ý kiến tại Kỳ họp thứ 9
Thảo luận tại phiên họp, các đại biểu đã cho ý kiến về mục đích ban hành luật, hồ sơ dự án luật, tính thống nhất trong hệ thống pháp luật, phạm vi điều chỉnh, giải thích từ ngữ, về áp dụng tình trạng khẩn cấp và các luật liên quan, các biện pháp được áp dụng trong trường hợp ban bố tình trạng khẩn cấp, các chính sách và biện pháp hỗ trợ, thời điểm thông qua luật…

Phó Chủ tịch Quốc hội, Thượng tướng Trần Quang Phương phát biểu. (Ảnh: DUY LINH)
Phát biểu kết luận, Phó Chủ tịch Quốc hội, Thượng tướng Trần Quang Phương cho biết, Ủy ban Thường vụ Quốc hội nhất trí với sự cần thiết ban hành luật, cơ bản nhất trí với nhiều nội dung của dự thảo luật do Chính phủ trình và các nội dung thẩm tra. Dự thảo luật cơ bản bám sát quan điểm chỉ đạo của Đảng về đổi mới, hoàn thiện quy trình xây dựng pháp luật và yêu cầu đổi mới tư duy xây dựng pháp luật, đủ điều kiện trình Quốc hội xem xét, cho ý kiến tại Kỳ họp thứ 9.
Phó Chủ tịch Quốc hội đề nghị cơ quan soạn thảo tiếp tục rà soát kỹ lưỡng các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến tình trạng khẩn cấp và các điều ước quốc tế để bảo đảm tính thống nhất, tính tương thích, tính khả thi; xử lý hài hòa các quy định liên quan được các luật khác quy định, bảo đảm tính thống nhất trong hệ thống pháp luật.
Tiếp tục nghiên cứu thể chế hóa các quan điểm về đổi mới tư duy trong công tác xây dựng pháp luật đối với các nội dung trách nhiệm quản lý nhà nước về phân cấp, phân quyền, giao quyền cho Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, bộ, các cơ quan ngang bộ; đơn giản hóa thủ tục hành chính, không quy định cụ thể về quy trình, thủ tục, hồ sơ trong dự thảo luật.
Phó Chủ tịch Quốc hội cũng đề nghị cơ quan soạn thảo rà soát, hoàn thiện các quy định về các biện pháp áp dụng bảo đảm không mâu thuẫn, chồng chéo với các biện pháp phòng thủ dân sự cấp độ 1, cấp độ 2, cấp độ 3 và các biện pháp dân sự được áp dụng trong tình trạng khẩn cấp, quy định tại Luật Phòng thủ dân sự; việc phân quyền cho Thủ tướng Chính phủ áp dụng các biện pháp mà pháp luật hiện hành chưa quy định hoặc khác luật, bảo đảm linh hoạt trong việc ứng phó xử lý các tình trạng khẩn cấp; quy định rõ trong trường hợp chưa hoặc không ban bố tình trạng khẩn cấp quốc phòng có thể áp dụng các biện pháp khác; đồng thời làm rõ thêm thời điểm hiệu lực, đối tượng, các biện pháp này để đảm bảo tính khả thi bằng các văn bản pháp luật dưới luật.