Làm đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam: Việt Nam có tự làm chủ được công nghệ?

Dự án đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam là dự án giao thông trọng điểm góp phần tái cấu trúc năng lực hạ tầng, công nghệ của Việt Nam. Về lâu dài, nó trở thành xương sống của hạ tầng giao thông.

Chọn công nghệ phù hợp nhất

Việc xây dựng đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam đã và đang nhận được nhiều sự quan tâm của dư luận trong thời gian qua. Một trong những khó khăn lớn nhất khi làm tuyến đường sắt tốc độ cao hiện nay là Việt Nam chưa từng làm đường sắt cao tốc. Khả năng xây dựng, vận hành, bảo trì và đặc biệt khả năng làm chủ công nghệ của tuyến đường sẽ diễn ra như thế nào?

Đường sắt cao tốc Bắc - Nam được dự kiến triển khai xây dựng trong 8 năm - Ảnh minh họa

Đường sắt cao tốc Bắc - Nam được dự kiến triển khai xây dựng trong 8 năm - Ảnh minh họa

Theo dự thảo báo cáo nghiên cứu tiền khả thi dự án đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam, Bộ Giao thông vận tải đề xuất phương án đầu tư tuyến đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam với vận tốc thiết kế 350km/giờ và cơ bản hoàn thành trong năm 2035.

Theo phương án được tư vấn nghiên cứu đề xuất, tuyến đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam có vận tốc thiết kế 350km/giờ, tổng chiều dài 1.541km, đường đôi, khổ 1.435mm, chạy bằng nhiên liệu điện khí hóa.

Tuyến sẽ bắt đầu từ ga Ngọc Hồi, đi qua 20 tỉnh, thành phố và kết thúc tại ga Thủ Thiêm (TP.HCM). Toàn tuyến được bố trí 23 ga khách với cự ly trung bình từ 50 - 70km/ga; 5 ga hàng gắn với các đầu mối hàng hóa, phục vụ cả hậu cần quốc phòng khi có nhu cầu. Dự án có tổng mức đầu tư hơn 67 tỉ USD, dự kiến sử dụng nguồn vốn ngân sách nhà nước bố trí trong các kỳ kế hoạch đầu tư công trung hạn. Thời gian bố trí vốn trong khoảng 12 năm, mỗi năm bình quân khoảng 5,6 tỉ USD.

Theo lộ trình, dự án sẽ được trình Quốc hội thông qua chủ trương đầu tư tháng 10.2024, khởi công cuối năm 2027, phấn đấu hoàn thành toàn tuyến năm 2035. Phương án tổ chức khai thác sẽ được điều chỉnh phù hợp với nhu cầu vận tải từng thời điểm, đối tượng phục vụ, bảo đảm khai thác hiệu quả hệ thống kết cấu hạ tầng.

Dự án cũng đề xuất tổ chức khai thác chủ yếu với 2 loại tàu: tàu dừng ở một số ga chính (dự kiến 5 ga: Ngọc Hồi, Vinh, Đà Nẵng, Nha Trang, Thủ Thiêm) và tàu dừng đan xen ở tất cả các ga. Khi có nhu cầu sẽ điều chỉnh biểu đồ chạy tàu để vận tải hàng hóa, phục vụ quốc phòng an ninh.

Về công nghệ, Bộ Giao thông vận tải cho biết, trên thế giới có 3 loại hình công nghệ gồm: Công nghệ chạy trên ray, mức đầu tư trung bình, tốc độ khoảng 250-350km/giờ; công nghệ chạy trên đệm từ trường, đầu tư lớn, tốc độ khoảng 600km/giờ; công nghệ chạy trong ống, tốc độ lên đến khoảng 1.200km/giờ, chi phí đầu tư rất cao.

Công nghệ chạy trên ray có tốc độ thấp hơn nhưng bù lại đây là công nghệ đã trải qua lịch sử nghiên cứu hơn 50 năm, có mức độ an toàn và hiệu quả vận tải cao, phù hợp với điều kiện Việt Nam. Căn cứ mức độ tin cậy, hiệu quả, kinh nghiệm các quốc gia trên thế giới, Bộ Giao thông vận tải kiến nghị lựa chọn công nghệ đường sắt chạy trên ray.

Giới chuyên gia cho rằng đường sắt cao tốc Bắc - Nam là mạch máu chính của nền kinh tế. Vì vậy, các bộ ngành liên quan cần phải cùng nghiên cứu thực hiện. Điều quan trọng là làm thế nào để đạt được tốc độ cao, công nghệ tiên tiến nhất.

Về vấn đề này, Bộ Giao thông vận tải lý giải việc lựa chọn công nghệ từ nước nào được đánh giá theo nhiều yếu tố. Ngoài giá thành, cần căn cứ khả năng hỗ trợ, chuyển giao công nghệ thế nào mới tiến hành lựa chọn. Trong bước nghiên cứu khả thi của dự án sẽ tính toán cụ thể các yếu tố kỹ thuật để làm căn cứ lựa chọn.

Làm chủ được công nghệ?

Còn về vấn đề làm chủ công nghệ với dự án này, đại diện Tổng công ty Đường sắt Việt Nam (VNR) cho biết khó khăn lớn chính là hệ thống thông tin tín hiệu là điều khiển trên tàu (OCC), hiện trung tâm điều hành vẫn đang sử dụng thủ công, Việt Nam chưa tự động hóa được.

Tuy nhiên, lãnh đạo VNR cho biết với các tuyến đường sắt quốc gia đang khai thác, VNR đang cơ bản làm chủ công nghệ và tỷ lệ nội địa hóa đối với toa xe đã được khoảng 70 - 80%, chỉ có trục bánh xe và van hãm phải nhập khẩu, còn lại đã có thể chủ động. Máy móc cũng được đầu tư theo công nghệ chuyển giao.

Theo đề án, tuyến đường sắt tốc độ cao trục Bắc - Nam dự kiến đầu tư với chiều dài kết cấu 60% là cầu, 10% là hầm và 30% là nền đất. Ông Trần Thiện Cảnh, Cục trưởng Cục Đường sắt Việt Nam (Bộ Giao thông vận tải) nhận định doanh nghiệp trong nước có thể thực hiện 100% từ thiết kế đến thi công.

Đến nay, các doanh nghiệp về chíp, mạch điện tử của Việt Nam đều có thể tham gia. Họ không chỉ sản xuất các linh kiện điện tử, phụ kiện hay ô tô mà có thể làm công nghiệp phụ trợ đường sắt. Sau khi tham khảo kinh nghiệm từ 22 quốc gia trên thế giới, đặc biệt là từ 6 quốc gia có đường sắt tốc độ cao phát triển nhất hiện nay (gồm Nhật Bản, Pháp, Tây Ban Nha, Trung Quốc, Đức, Hàn Quốc), một số nước đều bày tỏ sự sẵn sàng chuyển giao công nghệ cho Việt Nam.

Để thu hút thêm doanh nghiệp, góp phần làm chủ về công nghệ, trong đề án, Bộ Giao thông vận tải đề xuất tạo cơ chế đặc thù tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong nước tham gia phát triển công nghiệp đường sắt.

Cụ thể, cho phép chủ đầu tư được đặt hàng các doanh nghiệp trong nước cung cấp phương tiện, thiết bị có thể sản xuất trong nước. Ngoài ra, chủ đầu tư các dự án đầu tư tuyến đường sắt tốc độ cao, đường sắt quốc gia, đường sắt đô thị được yêu cầu tổng thầu, nhà thầu chuyển giao công nghệ.

Đồng thời, Bộ Giao thông vận tải đề nghị bổ sung các sản phẩm, vật tư, thiết bị thuộc công nghiệp đường sắt cần ưu tiên vào danh mục sản phẩm cơ khí trọng điểm trong chiến lược phát triển ngành cơ khí Việt Nam làm cơ sở được hưởng chính sách ưu đãi.

Ngày 20.10, Bộ Chính trị, Ban Bí thư tổ chức Hội nghị toàn quốc quán triệt, triển khai thực hiện nghị quyết Hội nghị Trung ương 10 khóa 13. Thủ tướng Phạm Minh Chính đã trực tiếp truyền đạt một chuyên đề, trong đó, có nội dung về chủ trương đầu tư đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc - Nam.

Thủ tướng nhấn mạnh rằng việc đầu tư đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam là một yêu cầu khách quan và mang tính chiến lược trong quá trình phát triển hạ tầng đất nước. Đồng thời dự án sẽ tạo ra không gian phát triển mới, giá trị gia tăng của đất, đi lại thuận lợi cho người dân, cạnh tranh hàng hóa...

Thủ tướng chỉ rõ, trước đây Việt Nam còn gặp nhiều khó khăn về kinh tế, khi GDP bình quân đầu người chỉ hơn 1.000 USD và tổng GDP đạt hơn 100 tỉ USD, nên chưa thể thực hiện đầu tư đường sắt tốc độ cao. Tuy nhiên, hiện nay GDP của Việt Nam đã tăng gấp 3 - 4 lần, hoàn toàn đủ dư địa để triển khai dự án quan trọng này.

Sau khi tiếp thu, giải trình các ý kiến của Hội đồng Thẩm định nhà nước, Bộ Giao thông vận tải vừa chính thức đề nghị Chính phủ trình Quốc hội thông qua chủ trương đầu tư dự án đường sắt cao tốc Bắc - Nam. Trong đó, bộ khẳng định những năm đầu vận hành dự án, Nhà nước phải hỗ trợ chi phí bảo trì kết cấu hạ tầng...

Tuyết Nhung

Nguồn Một Thế Giới: https://1thegioi.vn/lam-duong-sat-toc-do-cao-bac-nam-viet-nam-co-tu-lam-chu-duoc-cong-nghe-225093.html
Zalo