Lãi suất tạm lắng…
Mặt bằng lãi suất huy động và cho vay có xu hướng chững lại và giảm dần, sau đà tăng đáng kể duy trì kể từ quí 4-2024 đến đầu năm 2025. Tín dụng tăng yếu và những nỗ lực hạ lãi suất của Ngân hàng Nhà nước đã giúp hạ lãi suất trên cả thị trường 1 và thị trường 2. Song, còn đó nhiều thách thức chờ đợi khi mục tiêu tăng trưởng tín dụng cao trong năm nay từ Chính phủ sẽ là áp lực không hề nhỏ lên cầu tiền, cũng như mặt bằng lãi suất.

Những nỗ lực kìm giảm lãi suất mạnh mẽ từ Chính phủ và NHNN đã phát đi tín hiệu tích cực cho nền kinh tế nhằm hiện thức hóa mục tiêu tăng trưởng GDP 8% trong năm nay. Ảnh minh họa: TL
Lãi suất có xu hướng giảm trên các thị trường
Thời gian qua, lãi suất huy động tiền gửi trên thị trường 1 (với dân cư và doanh nghiệp) đã giảm tại nhiều ngân hàng, sau chỉ đạo quyết liệt từ Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước (NHNN); trong khi đó, lãi suất cho vay có xu hướng ổn định, giảm nhẹ. Trên thị trường 2 (liên ngân hàng), lãi suất cũng có xu hướng giảm và duy trì khá ổn định, khi NHNN đã ngừng hút tiền thông qua phát hành tín phiếu; đồng thời cho vay trên thị trường mở với mức lãi suất 4%/năm, kỳ hạn dài hơn, tối đa lên tới ba tháng thay vì chỉ một tuần như trước đây.
Những nỗ lực kìm giảm lãi suất mạnh mẽ từ Chính phủ và NHNN đã phát đi tín hiệu tích cực cho nền kinh tế, nhằm hiện thức hóa mục tiêu tăng trưởng GDP 8% trong năm nay. Tỷ giá giảm gần đây, do áp lực từ sức mạnh của đô la Mỹ giảm dần, cũng hỗ trợ cho nhà điều hành tiền tệ độc lập hơn trong điều tiết lãi suất tiền đồng theo hướng giảm để hỗ trợ tăng trưởng.
Lãi suất giảm nhưng thanh khoản có dư không?
Có thể thấy, sự dịu đi của áp lực tài chính quốc tế là yếu tố hết sức quan trọng hỗ trợ cho đà giảm lãi suất trên thị trường 2. Các chính sách thuế quan của Tổng thống Mỹ Donald Trump đang dấy lên nhiều lo ngại khiến tăng trưởng của nền kinh tế số 1 thế giới giảm tốc, và thúc đẩy Cục Dự trữ liên bang Mỹ (Fed) tiến đến lộ trình tiếp tục cắt giảm lãi suất rõ ràng hơn. Nó cũng thúc đẩy đô la Mỹ suy yếu trên toàn cầu.
Chỉ số DXY đã giảm mạnh, từ vùng đỉnh 109,6 hồi giữa tháng 1 năm nay về quanh vùng 103,7 ở thời điểm hiện tại (tương đương mức giảm 5,6% trong vòng gần hai tháng). Không chỉ Mỹ, mà nhiều quốc gia/khu vực lớn trên thế giới đang cho thấy sự bất ổn, như Trung Quốc hay Eurozone. Xu hướng cắt giảm lãi suất dường như vẫn là chủ đạo trên toàn cầu trong năm nay, điều này cũng tạo dư địa cho NHNN tùy nghi hơn trong điều hành lãi suất tiền đồng.
Về tổng thể, để đạt mục tiêu tăng trưởng GDP năm nay, có thể phải đánh đổi một số mục tiêu khác, bao gồm lạm phát, tỷ giá nếu các kênh bơm tiền mạnh được triển khai; nếu không, có thể phải hy sinh mục tiêu lãi suất.
Nhưng nhìn kỹ về trạng thái thanh khoản trong hệ thống ngân hàng hiện tại, có thể thấy chưa đủ dồi dào để tạo động lực cho đà giảm lãi suất trở nên rõ ràng hơn. Có một số dấu hiệu mà chúng ta nên quan tâm, bao gồm, NHNN vẫn đang phải bơm ròng trên thị trường mở.
Đây là kênh bơm vốn ngắn hạn chủ yếu đảm bảo thanh khoản cho hệ thống ngân hàng, phần nào giúp ổn định lãi suất thị trường 2, thông qua duy trì lãi suất cho vay trên thị trường mở ở một mục tiêu thấp hơn lãi suất thị trường. Tuy nhiên, nó cũng cho thấy tiền trong hệ thống ngân hàng không dư. Còn lãi suất trên thị trường 1, chỉ ghi nhận mức giảm nhẹ, chủ yếu giảm theo các chỉ đạo của NHNN, mà không mang tính tự nhiên.
Thanh khoản không hề dồi dào, đó là hệ lụy từ nhiều yếu tố, trong đó cần kể tới tốc độ tăng trưởng huy động vốn kém hơn nhiều so với tăng trưởng cho vay trong năm 2024. Cụ thể, hết năm 2024, huy động vốn tăng 9,06%, trong khi tín dụng tăng tới 15,08%. Chênh lệch tốc độ tăng trưởng quá lớn làm hụt thanh khoản trên thị trường 1. Trong khi trên thị trường 2, tác động từ việc NHNN bán ròng ngoại tệ để bình ổn tỷ giá trong nhiều năm gần đây, cũng làm hạn chế thanh khoản của thị trường.
Trong khi đó, việc bơm tiền thông qua thị trường mở, nhìn chung, chỉ mang tính chất ngắn hạn, bù đắp thiếu hụt thanh khoản trong giai đoạn nhất định. Mua/bán ngoại tệ là kênh bơm tiền mạnh trong chính sách tiền tệ của Việt Nam, song nó không đủ linh động để NHNN điều tiết thanh khoản thị trường theo ý muốn, do phụ thuộc vào nguồn cung ngoại tệ trên thị trường, cũng như diễn biến tỷ giá và mục tiêu tỷ giá của nhà điều hành.
Có thể thấy nguồn tiền dư trong hệ thống ngân hàng đang phụ thuộc khá lớn vào lượng tiền gửi Kho bạc Nhà nước và lượng tiền bơm tạm thời của NHNN trên thị trường mở. Trong khi tiền gửi Kho bạc Nhà nước nhiều thời điểm biến động thất thường, và không phải công cụ trong chính sách tiền tệ, thì như đã nói ở trên, tiền bơm trên thị trường mở chỉ mang tính chất ngắn hạn. Qua đây, có thể thấy, thanh khoản trên thị trường thực chất không dư và có nhiều rủi ro biến động, do đó, lãi suất vẫn tiềm ẩn nhiều rủi ro tăng giảm thất thường và lo ngại rằng đà giảm lãi suất này có thể không bền vững.
Những yếu tố nào tác động tới mặt bằng lãi suất nửa cuối năm 2025?
Về yếu tố mang tính thuận lợi cho lãi suất, như đề cập ở trên, xu hướng nới lỏng tiền tệ trên toàn cầu do tăng trưởng yếu tại nhiều khu vực kinh tế, sẽ là dư địa để NHNN xem xét giảm lãi suất điều hành. Hiện tại, giới đầu tư đang kỳ vọng Fed giảm lãi suất từ 2-3 lần trong năm nay, nghĩa là nới lỏng hơn, so với nhận định đầu năm nay rằng Fed sẽ không giảm thêm lãi suất. Chính sách thuế quan của ông Trump nhìn chung làm thị trường lo ngại về tăng trưởng nhiều hơn và nó cũng thúc đẩy việc các ngân hàng trung ương giảm lãi suất. Giảm lãi suất cũng là mong muốn của ông Trump trong lần đắc cử tổng thống lần thứ hai này.
Về yếu tố thách thức cho lãi suất năm nay, ắt hẳn và quan trọng nhất chính là mục tiêu tăng trưởng tín dụng cao của Chính phủ và NHNN. Năm nay, Chính phủ và NHNN định hướng tăng trưởng tín dụng đạt 16%; hỗ trợ tăng trưởng GDP ở mức 8%. Không thể phủ nhận, tín dụng là kênh dẫn vốn rất quan trọng của nền kinh tế.
Ngân hàng có thể giảm biên lãi ròng (NIM) để bảo toàn lãi suất cho vay ở mức phù hợp, kích cầu tín dụng; nhưng việc huy động tiền gửi đang khá yếu, trong khi việc đẩy tăng trưởng tín dụng cần nguồn vốn lớn, sẽ buộc các ngân hàng tăng lãi suất huy động để kéo dòng tiền đổ vào hệ thống ngân hàng. Khi lãi suất tiền gửi ở mức thấp, dòng tiền dịch chuyển sang các kênh đầu tư khác như vàng hay bất động sản, thậm chí là tiền mã hóa. Lạm phát kiềm chế ở mục tiêu 4%; tuy nhiên không phản ánh mức tăng giá bất động sản.
Giá trị bất động sản tại Hà Nội và các khu vực lân cận đang ở mức cao và vẫn có xu hướng tăng, đã làm tăng nhu cầu mua tích sản trong dân chúng, thay vì chỉ gửi tiền ở ngân hàng. Với mức lãi suất tiền gửi kỳ hạn một năm phổ biến trong khoảng từ 5-6%/năm; chỉ cao hơn 0,5 điểm phần trăm so với lạm phát mục tiêu do Quốc hội đề ra (tối đa không quá 4,5%). Đây là biên độ khá nhỏ, càng làm suy giảm nhu cầu gửi tiền trong dân chúng.
Dưới góc độ điều hành tiền tệ, để duy trì nền lãi suất ổn định ở mức thấp, nhằm hỗ trợ tăng trưởng tín dụng, kích thích tổng cầu, NHNN có thể xem xét giảm lãi suất điều hành trong các điều kiện thị trường thuận lợi và bơm tiền mạnh, như xem xét giảm thêm tỷ lệ dự trữ bắt buộc, mặc dù dư địa không nhiều. Bên cạnh đó, bơm tiền thông qua cho vay tái cấp vốn, cấp vốn cho các ngân hàng giải ngân tài trợ các dự án đầu tư công, thúc đẩy tăng trưởng tạo hiệu ứng lan tỏa phát triển sang nhiều nhóm ngành sản xuất kinh doanh đi kèm. Cân đối các thời điểm tỷ giá ổn định và nguồn cung ngoại tệ cải thiện để tranh thủ mua đô la Mỹ bổ sung dự trữ ngoại hối, đồng thời bơm tiền đồng ra thị trường, cũng là giải pháp cần tính tới.
Về tổng thể, để đạt mục tiêu tăng trưởng GDP năm nay, có thể phải đánh đổi một số mục tiêu khác, bao gồm lạm phát, tỷ giá nếu các kênh bơm tiền mạnh được triển khai; nếu không, có thể phải hy sinh mục tiêu lãi suất. Nhưng lãi suất cao cũng tạo cản trở rất lớn để thúc đẩy nhu cầu vay vốn trong toàn nền kinh tế. Việc bơm tiền cũng cần tính tới những ảnh hưởng tiêu cực, khi nhu cầu đầu cơ bất động sản có thể tiếp tục tăng hay dòng tiền có thể đổ sang các kênh tài sản có độ rủi ro cao như tiền mã hóa.