Ký ức khó quên về ngày đầu năm mới
Ngày đầu tiên của năm mới, con cháu tề tựu đông đủ chúc thọ ông bà. Mùi nhang trầm thơm nồng ấm, quyện với không khí đoàn viên, sum vầy, làm người ta yêu hơn cái Tết truyền thống.
Khó quên cảnh nhà ngày mồng Một Tết ấy, ánh nến lung linh trong ba gian nhà thờ, khói trầm nghi ngút, hoa mai vàng trang trọng, những quả bồng bánh cúng ngũ sắc, những tranh chúc Tết, câu đối Tết và dáng ngồi thanh gầy của bà nội như một cành mai bên cạnh cành mai vừa nở trong vườn hôm qua.
Vào ngày Tết, bà nội cũng như mạ và các bác, các cô đều đem những bộ áo cất lâu năm trong tủ ra mặc, những chiếc áo may bằng vải gấm the thêu chữ thọ chữ phước, hoa cúc hay chim phượng được lót bằng vải lụa đỏ hay xanh rực rỡ, quần trắng mớ ba mớ bảy.
Bà nội thường mặc áo cặp hai màu, áo ngoài màu san hô, áo trong màu xanh da trời hay màu xanh lục thủy, áo may bằng vải the, hay lụa vân dệt tay công phu, đầu chít khăn nhiễu màu vàng cam hay để tóc bới có cài trâm, thanh lịch và đẹp như một bức tranh cổ.
Bà nội thường nói, chi thì chi, nghèo thì nghèo, ba bữa Tết áo quần nên lành lặn, nhà cửa nên quét dọn tươm tất, vường tược vun xới đẹp đẽ, và nên làm "đẹp lòng" nhau. Ngày Tết, nhất định bà không chỉ vẻ (răn dạy) con cháu nghiêm khắc một tiếng nào, bắt đầu từ sáng mùng Một.
Cung cách đón Tết Huế gần như một cuộc hành đạo nếp sống Huế, trong đó mĩ cảm và tâm cảm, đạo làm người trong bước đi "đẹp lòng" với người với cảnh, là một không hai. Ở đó đó không có ý niệm phân biệt sang hèn, cao, thấp trong so đo vật chất, tranh chấp thế giá.
Ở đó có nhiều tận tình chung nhau niềm tin lạc quan về thời gian, về đổi thay, về chuyển hóa, mà năm mới là khởi đầu của hi vọng, ở đó nếu hiểu “lạc đạo”, trong nghĩa “đẹp lòng” thì “an bần” không phải là “nghèo túi” mà là “biết đủ” và “biết chia sẻ”, cho nên cũng “đẹp lòng”, cho nên vui đạo. Hình như từ tuổi thơ, linh cảm về “bước đi của đạo” ấy một nửa đã đến từ “bầu trời" Linh Mụ một sáng mùa xuân.
Không biết có người Huế nào đã gặp khoảnh khắc ấy như tôi đã gặp, sáng mồng Một Tết chạy ra ngõ chơi, bất ngờ vì chưa một lần chú ý, nhưng đã gặp sông núi mùa xuân đài các dưới bầu trời Tết Huế bãng lãng mây bay trên cao.
Núi mùa xuân khoác tấm áo màu xanh mực tàu, màu xanh bát ngát, như vừa mới được tạo hóa xuất thần ra tay tuyệt xảo, một màu xanh mới lạ, tân kì chưa từng nghe ca ngợi trong cố thi cũng như chưa bao giờ thấy trong các bức cổ họa.
Lung linh trong nắng sớm, tấm áo mùa xuân của núi bỗng trở nên một bài thơ Tết diễm ảo không lời, trong đó đỉnh Kim Phụng hiện ra vừa ung dung tự tại vừa trang trọng bí ẩn nơi khúc quành của dòng sông, gần gũi thân thuộc chứ không xa xôi mờ nhạt như trong ngày đông giá.
Hình như vẻ thanh tú, trẻ lại thành “non xanh” của núi mùa xuân đã làm trái tim của cô bé vừa được mạ cho mặc áo mới ngày Tết chợt ngẩn ngơ rồi bỗng cùng hòa nhịp đập.
Cô bé ấy đã mang hình ảnh tấm áo mới thời thơ dại và tấm áo xuân ngày Tết của bầu trời Huế đi suốt quãng đời, để khi trở về, cuộc đi tìm những di bảo người xưa trở thành đam mê gìn giữ những chiếc áo dài thời xưa ấy, như lời nhắn của núi xuân lồng lộng áo mới một ngày thơ dại đón Tết sum vầy.