KỶ NIỆM 80 NĂM CÁCH MẠNG THÁNG TÁM VÀ QUỐC KHÁNH 2-9 Hào khí Tuyên ngôn độc lập - Việt Nam vươn mình bước vào kỷ nguyên mới (Bài 2)

Sáng 2-9-1945, tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh trịnh trọng đọc bản Tuyên ngôn độc lập - bản hùng ca bất diệt, phá tan xiềng xích nô lệ thực dân, phong kiến, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, toàn dân được độc lập, tự do, hạnh phúc thực hiện khát vọng hùng cường, tiến bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.

Sau 30 năm bôn ba tìm đường cứu nước, ngày 28-1-1941, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và các đồng chí cán bộ cách mạng trở về Pác Bó, xã Trường Hà, tỉnh Cao Bằng xây dựng căn cứ địa cách mạng chuẩn bị tiến tới tổng khởi nghĩa. Tranh: Trịnh Phòng

Sau 30 năm bôn ba tìm đường cứu nước, ngày 28-1-1941, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và các đồng chí cán bộ cách mạng trở về Pác Bó, xã Trường Hà, tỉnh Cao Bằng xây dựng căn cứ địa cách mạng chuẩn bị tiến tới tổng khởi nghĩa. Tranh: Trịnh Phòng

Hào khí Tuyên ngôn độc lập được Người thắp lên từ cội nguồn cách mạng Pác Bó, Cao Bằng (1941-1945) - “địa chỉ đỏ” trong hành trình giải phóng dân tộc. Báo và Phát thanh, Truyền hình Đồng Nai trân trọng giới thiệu loạt 5 bài: “Hào khí Tuyên ngôn độc lập - Việt Nam vươn mình bước vào kỷ nguyên mới” khắc họa lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc, được Chủ tịch Hồ Chí Minh thắp lên ở Pác Bó, Cao Bằng, đến thời khắc thiêng liêng Người đọc Tuyên ngôn độc lập và bài học trường tồn cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong kỷ nguyên mới.

BÀI 2:

PÁC BÓ - “ĐỊA BÀN CHIẾN LƯỢC” LAN TỎA NGỌN CỜ ĐẤU TRANH CÁCH MẠNG VÀ Ý CHÍ QUYẾT THẮNG

Theo chân chị Vi Thị Thoa, hướng dẫn viên Khu di tích quốc gia đặc biệt Pác Bó (Cao Bằng), chúng tôi men theo dòng suối Lênin, lắng nghe câu chuyện về mùa Xuân 1941, khi lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc vượt mốc 108 trở về Tổ quốc, chọn Pác Bó làm căn cứ địa. Giữa núi rừng xanh thẳm, lịch sử như nối dài từ Hội nghị Hồng Kông (2-1930) - nơi Người chủ trì hợp nhất các tổ chức cộng sản, thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và khởi thảo Cương lĩnh chính trị đầu tiên - đến hang Pác Bó, mái lán Khuổi Nậm. Ở đây, đường lối cách mạng cứu nước của Đảng được cụ thể hóa bí mật trong lòng dân: huấn luyện cán bộ, in tài liệu, gây dựng cơ sở, mở đường “Nam tiến”.

Cột mốc 108 nơi in dấu chân lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và đoàn cán bộ cách mạng về nước ngày 28-1-1941 hiện nay vẫn được bảo vệ nguyên trạng. Ảnh: Trường Hà

Cột mốc 108 nơi in dấu chân lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và đoàn cán bộ cách mạng về nước ngày 28-1-1941 hiện nay vẫn được bảo vệ nguyên trạng. Ảnh: Trường Hà

Từ ngọn lửa Pác Bó, phong trào lan tỏa khắp Việt Bắc, tiến về miền xuôi, để mùa thu năm 1945 dân tộc bước vào kỷ nguyên độc lập, tự do, với chân lý sáng ngời: Lòng dân và địa thế chiến lược làm nên sức mạnh cách mạng.

Pác Bó căn cứ địa chiến lược sẽ mở rộng ra toàn quốc

Sơ đồ địa hình Pác Bó hiện lên như một tấm khiên: Những dãy núi đá vôi dựng đứng, hang động chằng chịt, khe suối len lỏi qua vách đá, đường mòn bám sườn núi và chỉ cách biên giới vài cây số - đủ gần để bảo đảm liên lạc quốc tế, đủ sâu để ẩn náu an toàn khi bị truy kích. Yếu tố “địa lợi” ấy là điều kiện tự nhiên quan trọng để Nguyễn Ái Quốc chọn Pác Bó làm căn cứ khi trở về nước ngày 28-1-1941. Nhưng nếu chỉ có núi cao, rừng sâu thì chưa phải. Cái cốt lõi là lòng dân.

Đoàn cán bộ, phóng viên Báo và Phát thanh, Truyền hình Đồng Nai thăm hang Pác Bó, nơi lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và cán bộ Đảng ở trong những ngày đầu mới về nước hoạt động cách mạng. Ảnh: Trường Hà

Đoàn cán bộ, phóng viên Báo và Phát thanh, Truyền hình Đồng Nai thăm hang Pác Bó, nơi lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và cán bộ Đảng ở trong những ngày đầu mới về nước hoạt động cách mạng. Ảnh: Trường Hà

Chị Thoa cho biết: Trước khi Người về nước, vùng biên ải Cao Bằng, nhất là Châu Hà Quảng, Hòa An, Nguyên Bình, từ đầu thế kỷ XX đã sớm có phong trào đấu tranh chống phong kiến, tay sai, Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội, rồi các tổ chức cứu quốc. Đồng bào Tày, Nùng, Dao… một lòng che chở cán bộ, “bám dân mà sống, nhờ dân mà hoạt động”. Chính yếu tố nhân hòa đã biến địa lợi thành thế mạnh chiến lược. Từ Pác Bó, Người có thể quan sát tình hình, kiểm nghiệm chủ trương và quan trọng hơn, dẫn dắt phong trào từ cái nôi nông thôn - miền núi lan xuống miền xuôi.

Người nhận định: “Căn cứ địa Cao Bằng sẽ mở ra triển vọng lớn cho cách mạng nước ta. Cao Bằng có phong trào tốt từ trước, lại kề sát biên giới, lấy đó làm cơ sở liên lạc quốc tế rất thuận lợi. Nhưng từ Cao Bằng còn phải phát triển về Thái Nguyên và thông xuống nữa mới có thể tiếp xúc với toàn quốc được. Có nối phong trào được với Thái Nguyên và toàn quốc thì khi phát động đấu tranh vũ trang, lúc thuận lợi có thể tiến công, lúc khó khăn có thể giữ”.

Đoàn cán bộ, phóng viên Báo và Phát thanh, Truyền hình Đồng Nai thăm Khu trưng bày hình ảnh hoạt động của Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Khu di tích Quốc gia đặc biệt Pác Bó (Cao Bằng). Ảnh: Trường Hà

Đoàn cán bộ, phóng viên Báo và Phát thanh, Truyền hình Đồng Nai thăm Khu trưng bày hình ảnh hoạt động của Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Khu di tích Quốc gia đặc biệt Pác Bó (Cao Bằng). Ảnh: Trường Hà

Từ Pác Bó là “điểm xuất phát” của mọi quyết sách lớn trong giai đoạn 1941-1945; là nơi đường lối gắn với thực tiễn, để mỗi văn kiện không nằm yên trên giấy mà hóa thành lực lượng vật chất: tổ chức, con người, cơ sở. Địa bàn chiến lược, cộng với lòng dân - đó là đáp án vì sao Pác Bó được chọn và vì sao từ nơi đây “ngọn lửa” có thể cháy mãi.

Phong trào Việt Minh theo con đường “Nam tiến” về xuôi

Để triển khai các nhiệm vụ chiến lược giải phóng dân tộc, tháng 5-1941, Người triệu tập Hội nghị Trung ương 8 tại lán Khuổi Nặm, hoàn chỉnh chuyển hướng chiến lược: Đặt giải phóng dân tộc lên hàng đầu; thành lập Mặt trận Việt Nam Độc lập Đồng minh (Việt Minh); xây dựng khu căn cứ; chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang. Nói cách khác, từ “Cương lĩnh đỏ” năm 1930 trên giấy, đến chương trình hành động cụ thể năm 1941, đường lối cách mạng “chạm đất” tại Pác Bó đã bắt đầu được mở ra.

Tỉnh ủy viên, Tổng Biên tập Báo và Phát thanh, Truyền hình Đồng Nai Nguyễn Thị Minh Nhâm thăm lán Khuổi Nặm, nơi lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc chủ trì Hội nghị Trung ương 8. Ảnh: Trường Hà

Tỉnh ủy viên, Tổng Biên tập Báo và Phát thanh, Truyền hình Đồng Nai Nguyễn Thị Minh Nhâm thăm lán Khuổi Nặm, nơi lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc chủ trì Hội nghị Trung ương 8. Ảnh: Trường Hà

Vào những buổi sáng sớm, chị Vi Thị Thoa khi đưa du khách tham quan hang Pác Bó đọc câu thơ của Bác như một ký ức chung của nhiều thế hệ: “Sáng ra bờ suối, tối vào hang/Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng/Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng/Cuộc đời cách mạng thật là sang”… tái hiện năm xưa từ nơi núi rừng sâu thẳm, một “bộ tổng tham mưu cách mạng” đã họp bàn nghị sự, dự thảo tài liệu, kết nối cơ sở, mở lớp huấn luyện, từng mắt xích nhỏ hợp thành một phong trào lớn có tổ chức để sẵn sàng chuyển động khi thời cơ tới.

Sau Hội nghị Trung ương 8 (ngày 19-5-1941), Mặt trận Việt Minh chính thức ra đời, Người và các cán bộ Đảng đã khẩn trương mở lớp huấn luyện chính trị - quân sự - công tác quần chúng, bồi dưỡng cán bộ nòng cốt; tổ chức in ấn tài liệu, truyền đơn, cẩm nang hoạt động bí mật; và ra báo “Việt Nam Độc Lập” - tờ báo nổi tiếng của Việt Minh, gọn nhẹ, dễ phát hành, nội dung giản dị mà sắc bén, in những bài viết “nói đúng điều dân nghĩ, viết trúng điều dân cần” đi vào từng xóm bản.

Từ các lớp huấn luyện ở Khuổi Nặm, Pác Bó, hàng chục cán bộ liên lạc, cán bộ tổ chức, tuyên truyền viên tỏa đi Bắc Kạn, Thái Nguyên, Lạng Sơn…, dần mở mạch “Nam tiến” theo hai hướng: Qua Việt Bắc (Thái Nguyên, Tuyên Quang, Bắc Kạn) theo các tuyến đường số 3, số 4 xuống trung du, bắc sông Hồng, kết nối cơ sở Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định… Đây là “đường cán bộ” đặc thù của thời kỳ tiền khởi nghĩa: Đi ít mà hiệu quả, nhỏ gọn mà thấm sâu. Họ mang theo đường lối, tài liệu, phương pháp công tác quần chúng, dựng hội cứu quốc, phát triển lực lượng tự vệ, chuẩn bị nòng cốt khởi nghĩa.

Nhiều nhà hoạt động cách mạng tiền bối như Võ Nguyên Giáp, Phạm Văn Đồng, Hoàng Văn Thụ, Hoàng Quốc Việt… từng gắn bó với Pác Bó, Cao Bằng trong những chặng đường khác nhau, để rồi từ đây, đường lối cứu nước được truyền tay bằng cả lập luận lý trí lẫn sức mạnh gương mẫu. Pác Bó vì thế vừa là trường học cán bộ, vừa là phòng biên tập, vừa là nhà in, là trung tâm “sơ tán - cơ động” khi tình hình biến động. Hễ cần, các tổ công tác lại băng rừng vượt suối, lại “xuống đồng” cùng dân, bền bỉ dựng thế lấy nông thôn bao vây thành thị, đưa phong trào về xuôi theo quy luật thấm dần.

Từ Pác Bó, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và Trung ương Đảng thành lập và chỉ đạo tổ chức Việt Minh là chứng minh một chân lý thực tiễn: Tuyên truyền - tổ chức - hành động là một chuỗi không thể tách rời. Huấn luyện mà không lan tỏa thì chỉ là “tự học”. Lan tỏa mà không có tổ chức thì chỉ là “phong trào tự phát”. Tổ chức mà không bám dân thì sớm muộn cũng rụng rời. Ở Pác Bó, 3 mắt xích ấy cài khớp với nhau, tạo lực đẩy cho “đường Nam tiến” - từ núi rừng sang đồng bằng, từ căn cứ về thành thị.

Rừng Trần Hưng Đạo - hình thành lực lượng vũ trang chủ lực cách mạng

Nếu Việt Minh là mặt trận chính trị - quần chúng, thì lực lượng vũ trang là quả đấm của cách mạng. Ngày 22-12-1944, thực hiện chỉ thị của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân được thành lập tại khu rừng Trần Hưng Đạo (châu Nguyên Bình, Cao Bằng) do Võ Nguyên Giáp chỉ huy, biên chế ban đầu 34 chiến sĩ. Chỉ 2 ngày sau, đội liên tiếp thắng lớn ở Phai Khắt (25-12) và Nà Ngần (26-12), giải phóng đồn địch, thu vũ khí, mở màn cho nghệ thuật “đánh chắc, thắng chắc” ở quy mô du kích nhưng hiệu quả chiến lược.

Sợi dây nối giữa Pác Bó (Hà Quảng) và rừng Trần Hưng Đạo (Nguyên Bình) không chỉ là địa lý, mà là một logic tổ chức: Đường lối đúng - cơ sở vững - cán bộ tinh - vũ khí có - dân che chở. Tại Pác Bó, huấn luyện - tuyên truyền - tổ chức tạo cốt cách chính trị cho đội ngũ; từ Nguyên Bình, đấu tranh vũ trang chứng minh năng lực tác chiến và hiệu ứng tinh thần. Hai trận đầu tay của đội không chỉ tiêu diệt sinh lực địch, mà còn khích lệ tinh thần quần chúng, thu hút thanh niên nhập ngũ, củng cố niềm tin vào con đường khởi nghĩa.

Bàn đá đầu nguồn suối Lênin, nơi lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc thường ngồi làm việc những ngày ở Pác Bó (Cao Bằng) hoạt động bí mật, xây dựng căn cứ địa cách mạng. Ảnh: Trường Hà

Bàn đá đầu nguồn suối Lênin, nơi lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc thường ngồi làm việc những ngày ở Pác Bó (Cao Bằng) hoạt động bí mật, xây dựng căn cứ địa cách mạng. Ảnh: Trường Hà

Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân sau đó phát triển, hợp nhất lực lượng, trở thành Việt Nam Giải phóng quân, rồi Vệ quốc quân và về sau là Quân đội nhân dân Việt Nam. Có thể nói, “khai sinh” quân đội cách mạng ở Cao Bằng là bước ngoặt: Từ tuyên truyền vũ trang sang đấu tranh vũ trang có tổ chức, từ cơ sở rời rạc sang lực lượng tập trung, mở đường cho những đòn quyết định khi thời cơ Tổng khởi nghĩa đến.

Theo hồi ký ông Tô Vũ Dâu, xã Vĩnh Quang, huyện Hòa An (nay là phường Nùng Trí Cao), là một trong 34 chiến sĩ trong Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân: Đường hành quân băng rừng, vượt suối, ban ngày ngụy trang, ban đêm hành tiến; người dân để sẵn nước sôi, cơm nắm ở “điểm hẹn” trong rừng; trẻ nhỏ canh gác mật hiệu ngoài bìa nương. Tất cả hợp sức thành mặt trận kháng chiến non trẻ mà hiệu quả. Và trên tất cả, kỷ luật sắt được đặt trên nền kỷ luật tự giác của người lính, của nhân dân. Lòng dân khi đã hóa thành ý chí tổ chức, thì căn cứ địa không còn chỉ là điểm trên bản đồ, mà là không gian sống của cách mạng.

Suối Lênin, núi Các Mác thuộc Khu di tích quốc gia đặc biệt Pác Bó, xã Trường Hà, tỉnh Cao Bằng. Ảnh: Trường Hà

Suối Lênin, núi Các Mác thuộc Khu di tích quốc gia đặc biệt Pác Bó, xã Trường Hà, tỉnh Cao Bằng. Ảnh: Trường Hà

Nhìn lại thành tựu vũ trang giai đoạn 1944-1945 ở Cao Bằng không thể tách rời sự chuẩn bị chính trị từ giai đoạn 1941-1943 tại Pác Bó. Không có cán bộ nòng cốt, cơ sở rộng, dân tin, đường lối rõ, thì không thể có một lực lượng 34 người dám đánh phủ đầu hai đồn địch chỉ trong 48 giờ. Và không có tinh thần ấy, thì khó có hào khí tháng Tám chỉ sau đó nửa năm.

Từ Pác Bó theo tấm bản đồ cách mạng, con đường độc lập - tự do là một chuỗi logic: Đảng ra đời (năm 1930) - Đường lối đúng - Căn cứ địa (Pác Bó, năm 1941) ra đời Mặt trận Việt Minh - Lực lượng vũ trang (1941-1944) - chuẩn bị chớp thời cơ (năm 1945) để tổng khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân.

Pác Bó dạy chúng ta một điều giản dị mà căn cốt: Đường lối cách mạng đúng chỉ thực sự trở thành sức mạnh khi nó được đứng trên đôi chân, niềm tin của nhân dân và tựa vào một thế bố trí khôn ngoan của địa bàn. Lòng dân biến núi rừng thành thành lũy, biến lán nứa thành phòng tham mưu, biến nhà dân thành trạm hậu cần và tổ chức cơ sở Đảng bí mật vững chắc. Còn địa thế giúp hóa giải tương quan bất lợi, giữ liên lạc, mở rộng ảnh hưởng, tạo ưu thế cơ động. Những yếu tố ấy hòa quyện thành sức mạnh Pác Bó, khiến căn cứ địa nhỏ nhưng tạo ra sinh lực lớn, lan tỏa, nuôi dưỡng thành phong trào đấu tranh cách mạng giải phóng dân tộc trên toàn quốc.

Nhà báo ĐOÀN NHƯ VIÊN, Phó Chủ tịch Hội Nhà báo tỉnh Đồng Nai

Rời Pác Bó trong chiều sương, chúng tôi chợt nhớ câu nói được nhiều tài liệu nhắc lại: Pác Bó là nơi đường lối, tổ chức cách mạng đi vào lòng dân. Đúng vậy, từ Hội nghị Hương Cảng đến lán Khuổi Nậm, từ báo Việt Nam Độc Lập đến Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân, từ cơ sở Cao - Bắc - Lạng đến mùa thu toàn thắng, đường lối ấy được xây từ lòng dân, tạo nên sức mạnh đại đoàn kết của 54 dân tộc anh em. Và khi lòng dân đã nối liền địa thế chiến lược cách mạng, lịch sử không thể khác: Đấu tranh giành độc lập - tự do - hạnh phúc sẽ giành thắng lợi.

Trường Hà

Nguồn Đồng Nai: https://baodongnai.com.vn/chinh-tri/202508/ky-niem-80-nam-cach-mang-thang-tam-va-quoc-khanh-2-9-hao-khi-tuyen-ngon-doc-lap-viet-nam-vuon-minh-buoc-vao-ky-nguyen-moi-84d1393/
Zalo