Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XV: Đại biểu Quốc hội tỉnh tham gia thảo luận tại hội trường về một số Dự án Luật

Ngày 27/10, Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XV bước vào tuần làm việc thứ hai. Trong ngày, Quốc hội tiến hành thảo luận tại hội trường để ý kiến vào nhiều Dự án Luật quan trọng.

Đại biểu Nguyễn Hải Dũng, Phó Trưởng đoàn ĐBQH tỉnh Ninh Bình tham gia thảo luận tại Hội trường. Ảnh: CTV

Đại biểu Nguyễn Hải Dũng, Phó Trưởng đoàn ĐBQH tỉnh Ninh Bình tham gia thảo luận tại Hội trường. Ảnh: CTV

Phiên làm việc buổi sáng, Quốc hội nghe Tờ trình, báo cáo thẩm tra về 3 Dự án Luật: Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam và cấm đi khỏi nơi cư trú; Luật Thi hành án hình sự (sửa đổi); Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Lý lịch tư pháp.

Sau đó, Quốc hội nghe Báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý về 4 dự thảo: Luật Dẫn độ; Luật Chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù; Luật Tương trợ tư pháp về hình sự; Luật Tương trợ tư pháp về dân sự và thảo luận ở hội trường về một số nội dung còn ý kiến khác nhau của 4 Dự thảo Luật này.

Toàn cảnh phiên thảo luận tại hội trường về một số Dự án Luật. Ảnh: CTV

Toàn cảnh phiên thảo luận tại hội trường về một số Dự án Luật. Ảnh: CTV

Tham gia thảo luận tại Hội trường, đại biểu Nguyễn Hải Dũng, Phó Trưởng đoàn ĐBQH tỉnh Ninh Bình đồng tình với Báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về 4 Dự thảo Luật trên. Đại biểu đánh giá 4 Dự thảo Luật ngắn gọn, nội dung các dự thảo luật đã phân định thẩm quyền, trình tự thủ tục rất rõ ràng, dễ thực hiện; nguồn kinh phí cho các hoạt động phối hợp giữa các cơ quan Nhà nước Việt Nam rất cụ thể.

Góp ý về vấn đề kỹ thuật đối với Dự thảo Luật Tương trợ tư pháp về hình sự, đại biểu Nguyễn Hải Dũng nêu: Tại khoản 2, Điều 8 quy định tương trợ tư pháp về lấy lời khai trực tiếp, trực tuyến; Khoản 5 quy định về tịch thu, phong tỏa, xử lý vật chứng; Khoản 3 quy định thu thập, cung cấp chứng cứ.

Theo Điều 87 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, nguồn chứng cứ gồm có: vật chứng (Điểm a, Khoản 1) và lời khai (Điểm b, Khoản 1, Điều 87). Như vậy, "chứng cứ" là khái niệm chung trong Bộ luật tố tụng hình sự, có được từ nhiều nguồn, trong đó có lời khai và vật chứng, và không có khái niệm riêng cụ thể được gọi là "chứng cứ". Vì thế, nếu quy định như Khoản 3, Điều 8 Dự thảo Luật Tương trợ tư pháp về hình sự, đó là "thu thập, cung cấp chứng cứ" sẽ được hiểu là thu thập, cung cấp từ các nguồn được quy định tại Khoản 1, Điều 87 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Đồng thời, quy định như thế thì đã bao hàm cả Khoản 2 và Khoản 5, Điều 8 Dự thảo Luật. Nghĩa là Khoản 2 và Khoản 5 sẽ bị thừa nếu quy định Khoản 3, Điều 8.

Để đảm bảo sự khoa học trong thiết kế điều luật, đại biểu đề xuất bổ sung vào Khoản 3, Điều 8 Dự thảo Luật Tương trợ tư pháp về hình sự, quy định về loại trừ việc lấy lời khai và tịch thu, trao trả xử lý vật chứng theo Khoản 2 và Khoản 5 điều này để khắc phục vấn đề nêu trên.

Tham gia thảo luận tại hội trường, đại biểu Nguyễn Hải Dũng đã góp ý về tính logic và thứ tự sắp xếp điều luật trong 2 dự thảo Luật Tương trợ tư pháp về hình sự và Luật Tương trợ tư pháp về dân sự. Đại biểu cho rằng khi giải trình ý kiến đại biểu Quốc hội về việc thống nhất sử dụng thuật ngữ “Bộ Công an - cơ quan trung ương của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về dẫn độ”, bảo đảm tính rõ ràng, thống nhất trong toàn bộ Dự thảo Luật Dẫn độ. Báo cáo số 1446 ngày 23 tháng 10 năm 2025 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội cũng đã giải trình rất rõ: Từ Điều 1 đến Điều 6 Dự thảo Luật sử dụng cụm từ "cơ quan trung ương của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về dẫn độ" nhằm thể hiện tính khách quan, bao quát trong bối cảnh tại các điều này chưa xác định rõ cơ quan nào đảm nhiệm vai trò cơ quan trung ương. Tuy nhiên, từ Điều 7 trở đi Dự thảo Luật quy định Bộ Công an là cơ quan trung ương của nước CHXHCN Việt Nam về dẫn độ, do đó tại các điều tiếp theo sử dụng trực tiếp cụm từ "Bộ Công an" là phù hợp, vừa rõ về thẩm quyền, trách nhiệm, vừa thuận tiện cho việc triển khai thi hành luật này.

Tương tự như vậy, trong Luật Chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù cũng đã quy định Cơ quan trung ương của Việt Nam về chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù tại Khoản 1, Điều 5, đó là Bộ Công an.

Tuy nhiên, đối chiếu với hai dự thảo luật còn lại, đó là Luật Tương trợ tư pháp về hình sự và Luật Tương trợ tư pháp về dân sự, quy định theo logic này của Ủy ban Thường vụ Quốc hội lại không được thực hiện, cụ thể là:

Tại Điều 16, Luật Tương trợ tư pháp về hình sự quy định: Cơ quan trung ương của Việt Nam trong tương trợ tư pháp về hình sự là Viện kiểm sát nhân dân tối cao (Khoản 1). Nhưng ngay bắt đầu từ Điều 12, Dự thảo Luật đã xác định rõ trách nhiệm Viện kiểm sát nhân dân tối cao với vai trò cơ quan lập yêu cầu hoặc cơ quan thực hiện yêu cầu của Việt Nam. Tiếp theo là Điều 13, quy định thẩm quyền của Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong việc xem xét yêu cầu liên quan đến hình phạt tử hình. Như vậy, lúc này Dự thảo Luật chưa khẳng định “Viện kiểm sát nhân dân tối cao là cơ quan trung ương của Việt Nam trong tương trợ tư pháp về hình sự” nhưng đã sử dụng trực tiếp cụm từ "Viện kiểm sát nhân dân tối cao" là chưa hợp lý về sắp xếp thứ tự các điều luật như giải trình của Ủy ban Thường vụ Quốc hội đối với Dự thảo Luật Dẫn độ.

Do đó, đại biểu đề nghị Luật Tương trợ tư pháp về hình sự cũng nên áp dụng tương tự đối với Luật Dẫn độ, đó là chuyển điều luật quy định Cơ quan trung ương của Việt Nam về tương trợ tư pháp về hình sự (Điều 16) lên trước Điều 12 Dự thảo Luật thì sẽ hợp lý và có tính thuyết phục hơn.

Đối với Dự thảo Luật Tương trợ tư pháp về dân sự cũng cần chuyển Điều 13 ( cơ quan trung ương của Việt Nam trong tương trợ tư pháp về dân sự) lên trước các điều đã ghi rõ là Bộ Tư pháp chủ trì phối hợp với các bộ, ngành trong việc xem xét yêu cầu tương trợ tư pháp về dân sự. Vì ngay tại Điều 4 của Dự thảo Luật đã quy định rõ trách nhiệm của Bộ Tư pháp, do vậy, đại biểu đề nghị chuyển Điều 13 lên trước Điều 4 của Dự thảo Luật Tương trợ tư pháp về dân sự.

Trong phiên thảo luận buổi sáng tại hội trường, nhiều đại biểu đã sôi nổi tham gia thảo luận về một số nội dung còn ý kiến khác nhau của 4 dự thảo: Luật Dẫn độ, Luật Chuyển người đang chấp hành án phạt tù, Luật Tương trợ tư pháp về hình sự và Luật Tương trợ tư pháp về dân sự. Đây là 4 dự án Luật được tách ra từ Luật Tương trợ tư pháp về hình sự hiện hành và đã được Quốc hội thảo luận, cho ý kiến tại Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XV.

*Buổi chiều, Quốc hội thảo luận ở hội trường về một số nội dung còn ý kiến khác nhau của dự thảo Luật Tình trạng khẩn cấp.

Thảo luận tại Hội trường về một số nội dung còn ý kiến khác nhau của Dự thảo Luật Tình trạng khẩn cấp, đại biểu Nguyễn Hải Dũng, Phó Trưởng đoàn ĐBQH tỉnh Ninh Bình cho rằng trong các cấp độ về tình trạng khẩn cấp được quy định tại Dự thảo có: tình trạng khẩn cấp về thảm họa, tình trạng khẩn cấp về an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội và tình trạng khẩn cấp về quốc phòng. Liên quan đến các cấp độ này thì có việc áp dụng theo Điều 13, 14, 15. Điều đó dẫn đến trong quy định về Nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Lệnh của Chủ tịch nước thì cũng cần thiết quy định cụ thể trong các tình huống này và trong các cấp độ này thì sẽ áp dụng như thế nào?. Đại biểu đề nghị cần bổ sung quy định rõ tại Khoản 1, Điều 10: Nội dung của Nghị quyết hoặc Lệnh ban bố, công bố tình trạng khẩn cấp về thảm họa, hoặc tình trạng khẩn cấp về an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, hoặc tình trạng khẩn cấp về quốc phòng. Khi mà trong Lệnh và Nghị quyết này quy định rõ các cấp độ như thế thì các cơ quan có thẩm quyền mới áp dụng Điều 13, 14, 15 một cách chính xác.

Trong báo cáo giải trình tiếp thu của Ủy ban Thường vụ Quốc hội thì có đề nghị là không sử dụng từ "phòng ngừa" trong dự thảo luật này, bởi vì tình trạng khẩn cấp chỉ được công nhận từ khi có Lệnh và Nghị quyết mới được xác định là tình trạng khẩn cấp và không có biện pháp phòng ngừa ở trong luật này. Tuy nhiên, trong Dự thảo luật này còn hai điểm còn quy định từ "phòng ngừa", đó là Khoản 3, Điều 3 và Khoản 2 Điều 21. Vì lý do đó, đề nghị Ban soạn thảo xem xét có sử dụng từ "phòng ngừa" trong luật này hay không. “Nếu theo Ủy ban Thường vụ Quốc hội giải thích, giải trình thì không sử dụng từ này. Vì vậy, tại Khoản 3, Điều 3 và Khoản 2,Điều 21, đề nghị bỏ từ "phòng ngừa"- đại biểu Nguyễn Hải Dũng, Phó Trưởng đoàn ĐBQH tỉnh Ninh Bình nêu ý kiến.

Đinh Ngọc

Nguồn Ninh Bình: https://baoninhbinh.org.vn/ky-hop-thu-10-quoc-hoi-khoa-xv-dai-bieu-quoc-hoi-tinh-tham-gia-thao-luan-tai-ho-251027103732340.html