Không thể xuyên tạc vai trò lãnh đạo của Đảng đối với thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945
Xuyên tạc lịch sử Đảng là một trong những hoạt động chiến tranh tư tưởng, tâm lý mà các thế lực thù địch thường xuyên tiến hành. Một trong những luận điệu chống phá mà các đối tượng tập trung thực hiện là xét lại, xuyên tạc ý nghĩa lịch sử, thời đại của Cách mạng tháng Tám năm 1945 nhằm hạ thấp tầm vóc, vai trò lãnh đạo của Đảng.

Ngày 19-8-1945, sau cuộc mít tinh tại Quảng trường Nhà hát Lớn, quần chúng nhân dân Thủ đô đã đánh chiếm được Bắc Bộ phủ, cơ quan đầu não của chính quyền tay sai Pháp ở Bắc Bộ. Ảnh: Tư liệu TTXVN
Xuyên tạc thành quả vĩ đại của Cách mạng tháng Tám năm 1945
Điển hình là trong cuốn sách Cách mạng Việt Nam năm 1945 Roosevelt, Hồ Chí Minh và De Gaulle trong một thế giới chiến tranh xuất bản năm 1991, S.Tonnesson cho rằng: “Bằng việc tạo ra khoảng trống quyền lực, các cường quốc đã làm đảo lộn toàn bộ tình hình và do đó đã mời Việt Minh giành chính quyền”.
Dựa vào quan điểm của S.Tonnesson, thời gian qua, trên các diễn đàn của các tổ chức phản động trong và ngoài nước liên tục rêu rao khi Nhật Bản đầu hàng, Pháp bỏ chạy, quân đồng minh chưa kịp vào Đông Dương đã tạo ra một “khoảng trống quyền lực”, tạo ra cơ hội cho Đảng Cộng sản Việt Nam giành chính quyền; từ đó suy diễn một cách lệch lạc rằng Cách mạng tháng Tám chỉ là “lầm lỗi của lịch sử”, rằng thành công nhờ “sự ăn may” để thiết lập nên chính quyền không hợp hiến, hợp pháp.
Thế nhưng, cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn đều cho thấy sự đúng đắn về con đường và phương thức tiến hành cách mạng mà Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã lựa chọn để tiến tới tổng khởi nghĩa giành chính quyền vào năm 1945.
Về mặt lý luận, chủ nghĩa Mác - Lênin đã chỉ dẫn các phương thức khác nhau trong cách mạng giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc. C.Mác và Ăngghen viết: “Một dân tộc muốn giành độc lập cho mình thì không tự giới hạn trong những phương thức tiến hành chiến tranh thông thường. Khởi nghĩa quần chúng, chiến tranh cách mạng, các đội du kích ở khắp mọi nơi - đó là phương thức duy nhất nhờ đó mà một dân tộc nhỏ có thể đánh thắng một dân tộc lớn, một quân đội ít mạnh hơn có thể đương đầu được với một quân đội mạnh hơn, có tổ chức hơn”. Phát triển tư tưởng của C.Mác và Ăngghen trong thời đại đế quốc chủ nghĩa, Lênin tiếp tục chỉ rõ vấn đề về tình thế và thời cơ khởi nghĩa giành chính quyền, về đấu tranh chính trị kết hợp với đấu tranh vũ trang... Những nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin trên cơ sở quy luật đấu tranh giai cấp và đánh giá đúng bản chất của giai cấp tư sản đã chỉ rõ con đường, phương thức để giai cấp vô sản và nhân dân lao động đứng lên tự giải phóng, đó là con đường đấu tranh bằng bạo lực có tổ chức của quần chúng, kết hợp giữa đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang, khởi nghĩa tiến lên tổng khởi nghĩa để giành lấy chính quyền cách mạng về tay công - nông.
Xác định con đường cứu nước, giành độc lập dân tộc
Vận dụng tư tưởng chủ nghĩa Mác - Lênin vào hoàn cảnh một nước thuộc địa như Việt Nam, Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã sớm xác định sự cần thiết phải tổ chức quần chúng đấu tranh theo con đường cách mạng để tiến tới giành chính quyền. Quan điểm này được hình thành từ năm 1921 trong bài viết Đông Dương cho Tạp chí Cộng sản. Trong bài viết này, Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc khẳng định sự đầu độc có hệ thống của tư bản không thể làm tê liệt tư tưởng cách mạng của người Đông Dương. Nói cách khác, “sự tàn bạo của chủ nghĩa tư bản đã chuẩn bị đất rồi: chủ nghĩa xã hội chỉ còn phải làm cái việc là gieo hạt giống của công cuộc giải phóng nữa thôi”.
Trong Đường kách mệnh (1927), Người tiếp tục khẳng định: “Nếu thợ thuyền Việt Nam biết tổ chức thì chắc Quốc tế đỏ sẽ hết lòng giúp cho mà làm cách mệnh. Nhưng muốn người ta giúp cho, thì trước hết mình phải tự giúp mình đã” và “muốn được giải phóng, các dân tộc chỉ có thể trông cậy vào mình, trông cậy vào lực lượng của bản thân mình”. Bởi theo Người: “Một dân tộc không tự lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc khác giúp đỡ thì không xứng đáng được độc lập”.
Về phương diện thực tiễn, nhìn vào thực tế lịch sử từ khi thực dân Pháp xâm lược đã cho thấy: Tất cả những người trông mong vào sự trợ giúp của ngoại bang để giành chính quyền, giành độc lập, tự do cho dân tộc đều bị thất bại. Từ việc cụ Tôn Thất Thuyết lên đường sang Trung Quốc cầu viện (1886), đến cụ Phan Bội Châu với quan niệm “đồng văn đồng chủng” đã sang Nhật Bản để cầu viện và cầu học. Cụ Lương Văn Can, Phan Châu Trinh chỉ yêu cầu người Pháp thực hiện cải cách cũng không thành công. Những thất bại của các con đường cứu nước kể trên chứng tỏ không thể giành được độc lập dân tộc bằng con đường hòa bình hoặc trông chờ kẻ thù “rủ lòng thương”, “trao trả nền độc lập”, mà chỉ có thể dựa vào chính sức mình, vào lực lượng quần chúng nhân dân để tiến hành đấu tranh bằng phương pháp bạo lực cách mạng.
Giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội
Trên cơ sở lý luận và thực tiễn đất nước, tại Cương lĩnh chính trị (tháng 2-1930), Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và Đảng ta đã giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội: “Làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”, bằng phương pháp khởi nghĩa để từng bước tiến lên tổng khởi nghĩa giành chính quyền hết sức độc đáo, sáng tạo và phù hợp với hoàn cảnh thực tế của đất nước, đáp ứng yêu cầu bức thiết của đại đa số nhân dân Việt Nam. Từ đó, tập hợp, đoàn kết toàn dân tộc, lấy liên minh công - nông làm động lực để thực hiện cuộc cách mạng chống đế quốc, chống phong kiến, thực hiện 2 nhiệm vụ chiến lược và sách lược là giành độc lập dân tộc, giành ruộng đất cho nông dân để đi tới xã hội cộng sản mà giai đoạn đầu là xã hội xã hội chủ nghĩa.
Ngay sau khi Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, tại Hội nghị Trung ương lần thứ 6 (tháng 11-1939), Hội nghị Trung ương lần thứ 7 của Đảng (tháng 11-1940), Đảng đã phân tích tình hình trong và ngoài nước, các mâu thuẫn cơ bản, chủ yếu của cách mạng... Từ đó quyết định điều chỉnh về đường lối và phương pháp cách mạng, đề cao nhiệm vụ giải phóng dân tộc, tập trung mũi nhọn vào chống bọn đế quốc và tay sai.
Sau Hội nghị Trung ương lần thứ 8 (tháng 5-1941), công tác xây dựng lực lượng cách mạng, phát động phong trào đánh Pháp, đuổi Nhật, chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền diễn ra sôi nổi trong toàn quốc. Trong điều kiện thời cơ tổng khởi nghĩa chưa chín muồi, Đảng chủ trương tiến hành giải phóng từng vùng, mở rộng căn cứ địa, duy trì và mở rộng chiến tranh du kích, phát động mạnh mẽ cao trào kháng Nhật, cứu nước. Một trong những nhiệm vụ trọng tâm được chỉ đạo thực hiện trong giai đoạn này là phát động quần chúng “Phá kho thóc, giải quyết nạn đói”. Đây là quyết định mang tầm chiến lược và sát với thực tiễn, đáp ứng nguyện vọng chính đáng, cấp bách của quần chúng nhân dân, có giá trị thúc đẩy cuộc tiến công cách mạng khi thời cơ đến.
Trước diễn biến nhanh chóng của tình hình thế giới và trong nước, từ ngày 13-8-1945 đến ngày 15-8-1945 tại Tân Trào (Tuyên Quang), Đảng quyết định phát động, lãnh đạo toàn dân tổng khởi nghĩa giành chính quyền từ tay phát xít Nhật trước khi quân đồng minh vào Đông Dương với quyết tâm: “Lúc này thời cơ thuận lợi đã tới, dù hy sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập”. Hưởng ứng lời kêu gọi của Đảng, của Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, nhân dân cả nước đã vùng lên khởi nghĩa giành chính quyền từ tay phát xít Nhật và chính quyền tay sai.
Đảng đã lãnh đạo nhân dân trải qua 15 năm đấu tranh với 3 cao trào cách mạng 1930-1931, 1936-1939, 1939-1945 với những thách thức vô cùng khốc liệt, gian khổ, hy sinh để từng bước chuẩn bị về mặt đường lối, tổ chức, lực lượng tiến tới giành chính quyền.
Cách mạng tháng Tám thành công rực rỡ nhờ nghệ thuật lựa chọn phương thức giành chính quyền và sự chuẩn bị kỹ lưỡng của Đảng. Cách mạng tháng Tám là một trong những thắng lợi vĩ đại nhất của dân tộc Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng - đó là sự thật không thể chối cãi. Những luận điệu xuyên tạc, bóp méo sự thật lịch sử chỉ làm cho thắng lợi Cách mạng tháng Tám của dân tộc ta càng thêm vĩ đại.