Không lấy mức độ tự chủ tài chính để xác định mức độ tự chủ: CSGD sẽ được đánh giá toàn diện

Không lấy mức độ tự chủ tài chính làm căn cứ để xác định mức độ tự chủ sẽ là bước chuyển giúp cơ sở giáo dục đại học phát triển đúng bản chất của tự chủ.

Trong toàn văn phát biểu của Tổng Bí thư Tô Lâm tại phiên bế mạc Hội nghị Trung ương 12, khóa XIII (đã diễn ra ngày 19/7/2025), về nội dung sửa đổi, bổ sung một số Nghị quyết, kết luận của Trung ương để tạo cơ sở chính trị cho mục tiêu tiếp tục cải cách, đổi mới đất nước, ở lĩnh vực giáo dục đào tạo có nêu: “không lấy mức độ tự chủ tài chính làm căn cứ để xác định mức độ tự chủ đối với cơ sở giáo dục, đào tạo công lập”.

Ngày 22/8/2025, Tổng Bí thư Tô Lâm ký ban hành Nghị quyết của Bộ Chính trị về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo (Nghị quyết số 71-NQ/TW). Một trong những nhiệm vụ giải pháp được đưa ra về đổi mới mạnh mẽ thể chế, tạo cơ chế, chính sách đặc thù, vượt trội cho phát triển giáo dục và đào tạo là: "bảo đảm quyền tự chủ đầy đủ, toàn diện cho các cơ sở giáo dục đại học, cơ sở giáo dục nghề nghiệp không phụ thuộc vào mức độ tự chủ tài chính".

Theo ghi nhận của phóng viên cho thấy, chuyên gia, lãnh đạo cơ sở giáo dục đại học kỳ vọng giải pháp này sẽ tạo được những chuyển biến tích cực trong nhận thức, tháo gỡ được những khó khăn trong thực hiện cơ chế tự chủ hiện nay.

Khó khăn khi tự chủ đại học được xác định bằng mức độ tự chủ tài chính

Trao đổi với phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Phùng Trung Nghĩa - Hiệu trưởng Trường Đại học Công nghệ thông tin và Truyền thông, Đại học Thái Nguyên chia sẻ, trong thực tiễn, không ít cơ sở giáo dục đại học công lập hiểu tự chủ với tự chủ tài chính. Nguyên nhân chủ yếu là do các văn bản quy phạm pháp luật, trong đó có Nghị định số 60/2021/NĐ-CP ngày 21/6/2021 của Chính phủ quy định cơ chế tự chủ tài chính của đơn vị sự nghiệp công lập, có phần “đặt nặng” vấn đề phân loại mức độ tự chủ tài chính của đơn vị sự nghiệp công lập, dẫn tới tâm lý nếu không tăng thu, không tự lo tài chính, thì khó được coi là tự chủ.

 Phó Giáo sư, Tiến sĩ Phùng Trung Nghĩa - Hiệu trưởng Trường Đại học Công nghệ thông tin và Truyền thông - Đại học Thái Nguyên. Ảnh: ICTU.

Phó Giáo sư, Tiến sĩ Phùng Trung Nghĩa - Hiệu trưởng Trường Đại học Công nghệ thông tin và Truyền thông - Đại học Thái Nguyên. Ảnh: ICTU.

Tuy nhiên, với cách hiểu đồng nhất tự chủ với tự chủ tài chính, thầy Nghĩa cho rằng đã dẫn đến một số hệ lụy như:

Thứ nhất, nhà trường tập trung nhiều vào hoạt động tài chính, dịch vụ, thu chi, thay vì đầu tư vào chất lượng đào tạo, nghiên cứu khoa học và sứ mệnh phục vụ cộng đồng.

Thứ hai, gia tăng khoảng cách giữa các đơn vị nhà trường. Cụ thể, đối với các trường đại học có lợi thế về quy mô tuyển sinh hoặc nguồn thu dịch vụ thường sẽ dễ “tiến nhanh” trong tự chủ, trong khi đó, các trường đại học ở địa phương, trường có quy mô nhỏ sẽ gặp khó khăn lớn, dẫn đến sự phát triển không đồng đều giữa các trường.

Thứ ba, đội ngũ giảng viên, cán bộ nhà trường sẽ chịu nhiều áp lực tài chính thay vì được khuyến khích phát triển học thuật và sáng tạo.

“Trường Đại học Công nghệ thông tin và Truyền thông là trường thành viên của Đại học Thái Nguyên, nguồn lực phân bổ qua cấp đại học vùng, khiến quá trình tự chủ tài chính nhiều khi chưa thật sự linh hoạt”, thầy Nghĩa lấy ví dụ thực tiễn.

Cùng chia sẻ, chủ tịch hội đồng khoa học của một trường đại học ở miền Bắc bày tỏ, không lấy tự mức độ tự chủ tài chính làm căn cứ để xác định mức độ tự chủ là nội dung chỉ đạo kịp thời, phù hợp với thực tiễn.

“Tự chủ đại học được khẳng định là chìa khóa thành công của các trường đại học tiên tiến trên thế giới, xã hội tin rằng đổi mới quản trị đại học trước hết là trao quyền tự chủ cho các trường.

Nhưng trên thực tế, tự chủ đại học ở Việt Nam lại không giống với bất kỳ mô hình tự chủ đại học nào trên thế giới. Bởi, tự chủ đang được hiểu là tự túc, tự bơi, tự lo về kinh tế. Ngày ký quyết định giao quyền tự chủ cũng là ngày nhà trường bị cắt giảm chi thường xuyên, tự túc càng nhiều thì được giao quyền tự chủ càng cao, nghĩa là các trường đại học buộc phải đánh đổi giữa việc được nhà nước cấp phát kinh phí chi thường xuyên để có được quyền tự quyết về một số lĩnh vực nào đó do nhà nước quy định”, vị này chia sẻ.

Từ góc độ chuyên gia, Giáo sư, Tiến sĩ Đặng Ứng Vận - nguyên Phó Chủ tịch Hội đồng Khoa học Văn phòng Chính phủ cho biết, việc gắn tự chủ của các cơ sở giáo dục với mức độ tự chủ tài chính là cách hiểu chưa đúng, dẫn đến nhiều bất cập, bởi khi đã tự chủ về định hướng phát triển, nhất là tự chủ học thuật, thì câu chuyện huy động nguồn lực không chỉ dừng ở tiền bạc hay cơ sở vật chất mà quan trọng hơn là nhân lực, sự chung tay đóng góp từ xã hội để xây dựng và phát triển nhà trường - “đây là những vấn đề lớn, không thể bao cấp hết được”, thầy Vận chia sẻ.

 Giáo sư, Tiến sĩ khoa học Đặng Ứng Vận - nguyên Phó Chủ tịch Hội đồng Khoa học Văn phòng Chính phủ. Ảnh: website Học viện Ngân hàng

Giáo sư, Tiến sĩ khoa học Đặng Ứng Vận - nguyên Phó Chủ tịch Hội đồng Khoa học Văn phòng Chính phủ. Ảnh: website Học viện Ngân hàng

Cơ sở giáo dục đại học được đánh giá toàn diện về năng lực tự chủ

Với định hướng “không lấy mức độ tự chủ tài chính làm căn cứ để xác định mức độ tự chủ đối với cơ sở giáo dục, đào tạo công lập”, thầy Vận cho rằng đây là tinh thần chỉ đạo xác đáng và kịp thời. Nội dung này mở ra cơ hội để các trường đại học nhìn nhận lại, rằng điều gì thật sự quyết định cơ chế tự chủ? Câu trả lời nằm ở năng lực thực thi quyền tự chủ của nhà trường, chứ không phải ở số tiền mà trường tự lo được bao nhiêu.

Để đánh giá mức độ tự chủ của cơ sở giáo dục, theo thầy Vận, không nên phân chia theo “mức” hay dựa vào tỷ lệ tự đảm bảo tài chính, mà cần nhìn vào cách nhà trường vận hành cơ chế tự chủ trong thực tiễn. Trên thực tế, nhiều trường vẫn chưa thực sự làm được điều này và đang gặp phải những ràng buộc khiến cơ chế tự chủ chưa phát huy hết hiệu quả và làm chậm bước tiến trong đổi mới quản trị đại học. Ví dụ như muốn ban hành chính sách vẫn phải chờ quyết định của cấp quản lý, sắp xếp tổ chức bộ máy còn phụ thuộc vào các văn bản luật chồng chéo, hay muốn triển khai dự án nào cũng phải xin ý kiến, xin phép nhiều cấp.

Mặt khác, vị chủ tịch hội đồng khoa học bày tỏ, một trong những việc cần làm để tự chủ trở nên thực chất hơn đó là cần rà soát, loại bỏ sự chồng chéo và cản trở lẫn nhau giữa các văn bản luật theo hướng ủng hộ tự chủ đại học.

“Tự chủ không có nghĩa là tự do, muốn làm gì thì làm, cùng với quy chế giải trình, nhà nước cần ban hành các quy tắc và nguyên tắc cho tự chủ đại học, tạo hành lang pháp lý đủ rộng cho tự chủ đại học, trong đó có nguyên tắc “tuân thủ hoặc giải trình” khi thực hiện quyền tự chủ của nhà trường.

Bên cạnh đó, tự chủ cũng không có nghĩa là tự lo. Do đó, về chi đầu tư, Nhà nước cần đầu tư cho các cơ sở giáo dục đại học thông qua “kết quả đầu ra” hay “chỉ số đo lường hiệu suất” KPIs (Key Performance Indicator). Từ đó mới có thể tạo lập ra một ‘sân chơi’ công bằng, bình đẳng, minh bạch cho các trường đại học, để các trường tự do cạnh tranh công minh và lành mạnh trên cơ sở các sản phẩm đầu ra (KPIs) mà họ cống hiến cho đất nước, cho tiến bộ xã hội”, vị này chia sẻ.

 Sinh viên Trường Đại học Công nghệ thông tin và Truyền thông, Đại học Thái Nguyên trong giờ thực hành. Ảnh: NTCC

Sinh viên Trường Đại học Công nghệ thông tin và Truyền thông, Đại học Thái Nguyên trong giờ thực hành. Ảnh: NTCC

Đồng tình với những chia sẻ trên, thầy Nghĩa bày tỏ đây là tinh thần chỉ đạo có tính chất định hướng đổi mới căn bản.

Việc không lấy mức độ tự chủ tài chính làm căn cứ để xác định mức độ tự chủ sẽ giúp thay đổi cách nhìn nhận rằng tự chủ không chỉ là “tự lo tiền bạc” mà còn là tự quyết về học thuật, nhân sự, tổ chức và chiến lược phát triển; mở ra cơ hội để nhà trường được đánh giá trên năng lực đào tạo, nghiên cứu, đổi mới sáng tạo, thay vì chỉ dựa vào khả năng cân đối ngân sách.

Cũng theo thầy Nghĩa, chúng ta cần xây dựng cách tiếp cận mới để đánh giá tự chủ đại học. Cụ thể, cần có cách tiếp cận đa chiều, trong đó tài chính chỉ là một khía cạnh. Một số tiêu chí quan trọng hơn để phản ánh mức độ tự chủ thực chất của cơ sở giáo dục đại học gồm: năng lực học thuật (chất lượng giảng dạy, nghiên cứu khoa học, công bố quốc tế và đóng góp cho tri thức); quyền tự quyết về tổ chức, nhân sự (quyền tuyển dụng, bổ nhiệm, phát triển đội ngũ giảng viên và cán bộ); chất lượng đầu ra (sự hài lòng của sinh viên, tỷ lệ việc làm, mức độ đáp ứng nhu cầu xã hội); đổi mới sáng tạo và phục vụ cộng đồng (khả năng triển khai các dự án chuyển giao công nghệ, gắn kết với doanh nghiệp và địa phương).

“Đối với nhà trường, chúng tôi định hướng phát triển trường công nghệ số, việc được đánh giá cao ở năng lực đào tạo nhân sự số, hợp tác doanh nghiệp và triển khai các mô hình đổi mới sáng tạo sẽ phản ánh tự chủ sát thực hơn so với chỉ dựa vào con số tài chính”, thầy Nghĩa cho biết.

“Tôi cho rằng, tinh thần “không lấy mức độ tự chủ tài chính làm căn cứ để xác định mức độ tự chủ” có thể sẽ là bước chuyển quan trọng, giúp các cơ sở giáo dục công lập, đặc biệt là các trường trong mô hình 2 cấp có thêm động lực và hành lang pháp lý để phát triển đúng bản chất của tự chủ”, thầy Nghĩa bày tỏ.

Ngọc Mai

Nguồn Giáo Dục VN: https://giaoduc.net.vn/khong-lay-muc-do-tu-chu-tai-chinh-de-xac-dinh-muc-do-tu-chu-csgd-se-duoc-danh-gia-toan-dien-post254079.gd
Zalo