Khơi thông nguồn lực trong doanh nghiệp Nhà nước

Bộ Chính trị đang có kế hoạch sớm ban hành Nghị quyết về kinh tế Nhà nước, trong đó không chỉ là DN Nhà nước, mà cả kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. Đây là bước đi có ý nghĩa chiến lược, nhằm củng cố vai trò dẫn dắt, bảo đảm ổn định và định hướng phát triển của nền kinh tế, trong bối cảnh Việt Nam đang hội nhập sâu rộng và chuyển dịch mạnh mẽ theo hướng công nghệ, đổi mới sáng tạo.

Công trình thi công dự án nhà ở xã hội tại ô đất N01, khu đô thị Hạ Đình (Hà Nội). Ảnh Di Linh

Công trình thi công dự án nhà ở xã hội tại ô đất N01, khu đô thị Hạ Đình (Hà Nội). Ảnh Di Linh

Sớm ban hành Nghị quyết về kinh tế Nhà nước

Ngay sau Đại hội XIV, tại Hội nghị Trung T.Ư II, T.Ư sẽ bàn thảo và ban hành một loạt nghị quyết quan trọng, trong đó có nghị quyết về mô hình phát triển đất nước thay thế tư duy “mô hình tăng trưởng” cũ. “Mô hình phát triển mới phải mang tính tổng thể, toàn diện, dựa trên nền tảng khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Đồng thời, Bộ Chính trị cũng đang nghiên cứu ban hành nghị quyết về giải pháp thúc đẩy tăng trưởng hai con số, với yêu cầu tăng trưởng ổn định, bền vững, không đánh đổi môi trường.

Theo đánh giá của các chuyên gia, Nghị quyết về kinh tế Nhà nước cùng những cơ chế sẽ được mở là cơ hội để DN Nhà nước đổi mới tư duy, vươn lên, mở đường, dẫn dắt DN Việt cạnh tranh ở tầm quốc tế.

DN Nhà nước của Việt Nam đang chiếm thị phần rất lớn trong một số lĩnh vực, như năng lượng, viễn thông, ngân hàng… đóng góp hơn 29% GDP của đất nước. Tính đến cuối năm 2024, cả nước có 671 DN Nhà nước và 142 DN có cổ phần, vốn góp của Nhà nước. Theo đó, tổng tài sản là 4,19 triệu tỷ đồng; vốn chủ sở hữu là 1,985 triệu tỷ đồng; tổng doanh thu đạt hơn 3 triệu tỷ đồng; lợi nhuận trước thuế đạt gần 243 nghìn tỷ đồng. Tỷ suất lợi nhuận trước thuế/vốn chủ sở hữu (ROE) bình quân chung năm 2024 của DN Nhà nước là 12% và tổng số phát sinh phải nộp ngân sách Nhà nước là gần 397 nghìn tỷ đồng.

DN 100% vốn Nhà nước mặc dù chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ trong nền kinh tế, chỉ khoảng 0,08% số DN hoạt động, nhưng lại nắm giữ nguồn lực lớn của nền kinh tế khoảng 7% tổng tài sản và 10% vốn chủ sở hữu của toàn bộ DN, chiếm khoảng 25,78% tổng vốn sản xuất, kinh doanh, 23,4% giá trị tài sản cố định và đầu tư tài chính dài hạn, đóng góp 28% tổng số thuế và các khoản phải nộp ngân sách Nhà nước. Quy mô tài sản bình quân của một DN Nhà nước là 4.100 tỷ đồng, cao gấp 10 lần DN có vốn đầu tư nước ngoài và gấp 109 lần DN ngoài quốc doanh.

So sánh tăng trưởng DN Nhà nước với DN có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), DN ngoài quốc doanh trên cơ sở dữ liệu ngành thuế cho thấy, giai đoạn 2021 - 2023, tổng tài sản khối DN Nhà nước tăng bình quân 2,7%/năm, trong khi đó khối FDI và ngoài quốc danh tăng bình quân tương ứng 6,9%/năm và 15%/năm. Vốn chủ sở hữu khối DN Nhà nước tăng bình quân 2,4%/năm, trong khi khối FDI, ngài quốc doanh tăng bình quân tương ứng 7,5%/năm và 12,75%/năm.

Về doanh thu, tổng doanh thu khối DN Nhà nước tăng bình quân gần 10%/năm, trong khi khối FDI và ngoài quốc doanh tăng bình quân tương ứng 4,8%/năm và 11%/năm. Về lợi nhuận, tổng lợi nhuận trước thuế khối DN Nhà nước tăng bình quân 8,5%/năm, trong khi khối FDI và ngoài quốc doanh tăng trưởng âm (lợi nhuận trước thuế năm 2023 thấp hơn năm 2022).

Về nộp ngân sách, đóng góp ngân sách Nhà nước, khối DN Nhà nước tăng bình quân 18%/năm, trong khi khối FDI và ngoài quốc doanh tăng bình quân tương ứng 5%/năm và 7,4%/năm (số nộp ngân sách Nhà nước tách phần lợi nhuận được chia, cổ tức được chia và thu dầu thô).

Như vậy, khối DN Nhà nước mặc dù tăng trưởng tài sản, vốn chủ sở hữu thấp hơn khối DN FDI và ngoài quốc danh (thể hiện việc đầu tư bổ sung vốn, mở rộng sản xuất, đầu tư dự án mới còn thấp), tuy nhiên hiệu quả hoạt động (tăng trưởng doanh thu, lợi nhuận) và nộp ngân sách Nhà nước lại cao hơn khá nhiều so với khối FDI và ngoài quốc doanh.

Làm tốt vai trò dẫn dắt phát triển

Trong quá trình xây dựng dự thảo Nghị quyết về phát triển kinh tế Nhà nước, Chính phủ đang xem xét, đề xuất một số mục tiêu và định hướng cụ thể. Quan điểm của Đảng và Nhà nước là tiếp tục khẳng định vai trò dẫn dắt phát triển của DN Nhà nước, biến bộ phận này thành lực lượng nòng cốt thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa và xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ. Điều này đặt ra một tầm nhìn mới, không chỉ dừng lại ở phạm vi quốc gia mà phải vươn ra quốc tế. Trong đó, hướng tới ít nhất có 3 DN lọt vào nhóm 500 DN có doanh thu lớn nhất thế giới (Fortune Global 500) và 100% tập đoàn, tổng công ty nhà nước áp dụng nguyên tắc quản trị tiên tiến theo chuẩn mực của Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD). Đây chính là cơ hội để các DN Nhà nước có thể vươn lên, trở thành những DN thể hiện được năng lực mở đường, dẫn dắt các DN trong cùng hệ thống vươn lên cạnh tranh ở tầm quốc tế.

Nếu như trước đây, sự ràng buộc về cơ chế, thể chế thường được xem là gánh nặng kìm hãm tốc độ phát triển và sự linh hoạt của DN Nhà nước, giờ đây, chính sách đã được tháo gỡ mạnh mẽ. Với những cải cách và sửa đổi mạnh mẽ các luật quan trọng như: Luật Quản lý vốn Nhà nước, Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư, Luật Đấu thầu... đã tạo ra một hành lang pháp lý thông thoáng, khơi thông nguồn lực. Trong cơ chế mới, Nhà nước chỉ quản lý phần vốn góp, trao quyền chủ động tuyệt đối về kinh doanh, tự quyết cơ chế tiền lương, thưởng, tăng vốn cho DN. Điều này có ý nghĩa đột phá chuyển DN Nhà nước từ một cơ quan thực hiện nhiệm vụ kinh tế - chính trị sang một thực thể kinh doanh đúng nghĩa, lấy hiệu quả làm thước đo chính.

Khi rào cản thể chế đã được gỡ bỏ, vấn đề cốt lõi còn lại nằm ở tư duy và quản trị, điều hành của chính các lãnh đạo và đội ngũ DN Nhà nước. Để hiện thực hóa mục tiêu tăng trưởng và vươn ra quốc tế, DN Nhà nước cần phải tận dụng tối đa các nguồn lực, đặc biệt là nguồn vốn lớn đang nắm giữ, để triển khai các chiến lược, kế hoạch kinh doanh nhằm đạt hiệu quả cao nhất về lợi nhuận, doanh thu và quy mô.

Đồng thời tránh dàn trải, tập trung đầu tư vào các dự án, lĩnh vực cốt lõi, có thế mạnh, mang tính dẫn dắt công nghệ và thị trường. Sớm hình thành và phát triển các tập đoàn kinh tế Nhà nước có quy mô lớn, hoạt động hiệu quả, đủ sức cạnh tranh khu vực và quốc tế trong các ngành, lĩnh vực then chốt. Cùng với đó, xây dựng mối liên kết chiến lược giữa DN Nhà nước với khu vực tư nhân trong nước. DN Nhà nước không chỉ cần vươn ra quốc tế mà còn phải đóng vai trò là đầu tầu dẫn dắt, hỗ trợ các DN tư nhân cùng hệ thống phát triển, xây dựng một nền kinh tế độc lập, tự chủ mạnh mẽ.

Ngô Sơn

Nguồn PL&XH: https://phapluatxahoi.kinhtedothi.vn/khoi-thong-nguon-luc-trong-doanh-nghiep-nha-nuoc-437573.html