Khó đạt chuẩn về diện tích đất, trường đại học đề xuất cho phép dùng chung CSVC
Lãnh đạo các trường đại học và ĐBQH cho rằng mô hình phòng thí nghiệm, thực hành dùng chung tại các khu vực trọng điểm là một giải pháp mang tính lâu dài.
Thông tư số 01/2024/TT-BGDĐT (gọi tắt là Thông tư số 01) của Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định Chuẩn cơ sở giáo dục đại học có hiệu lực thi hành kể từ ngày 22/3/2024.
Thông tư bao gồm các tiêu chuẩn, tiêu chí - yêu cầu tối thiểu về điều kiện đảm bảo chất lượng và chỉ số hoạt động của một cơ sở giáo dục đại học.
Quy định yêu cầu các cơ sở giáo dục đại học phải có khuôn viên, cơ sở vật chất, hệ thống thông tin và học liệu đáp ứng chất lượng giảng dạy, học tập và nghiên cứu đã khiến các trường đại học trong khu vực nội đô Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh gặp không ít vướng mắc khi thực hiện theo tiêu chuẩn về cơ sở vật chất của Thông tư số 01.
Cụ thể, tiêu chí 3.1 quy định: “Từ năm 2030, diện tích đất (có hệ số theo vị trí khuôn viên) tính bình quân trên một người học chính quy quy đổi theo trình độ và lĩnh vực đào tạo không nhỏ hơn 25 m2”. Trong đó, hệ số vị trí của khuôn viên đối với các khuôn viên nằm trong địa giới các quận của các thành phố trực thuộc Trung ương được tính bằng 2,5 lần và các vị trí còn lại được tính bằng 1 lần.
Quỹ đất hạn chế, thủ tục hành chính nhiều nan giải
Trao đổi với phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, Tiến sĩ Thái Doãn Thanh - Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Công thương Thành phố Hồ Chí Minh cho biết, hầu hết các cơ sở giáo dục đại học nằm trong khu vực nội đô hiện nay đều gặp nhiều khó khăn trong việc đáp ứng tiêu chuẩn về diện tích đất bình quân trên mỗi sinh viên theo quy định.
“Chiếu theo tiêu chí 3.1, tiêu chuẩn về cơ sở vật chất nêu trong Thông tư số 01, đa số các trường đại học, trong đó có Trường Đại học Công Thương Thành phố Hồ Chí Minh vẫn chưa đáp ứng được tiêu chuẩn về diện tích đất bình quân trên mỗi sinh viên. Đặc biệt, với quỹ đất hiện có, trường dự báo rằng đến năm 2030 vẫn sẽ gặp nhiều khó khăn trong việc đáp ứng tiêu chuẩn này.
Bên cạnh những thách thức về diện tích đất, việc triển khai xây dựng các công trình phục vụ giảng dạy và nghiên cứu tại các trường đại học cũng gặp không ít khó khăn, trong đó hai yếu tố quan trọng nhất là tài chính và cơ chế thực hiện quy hoạch.
Đối với Trường Đại học Công Thương Thành phố Hồ Chí Minh, mặc dù đã thực hiện cơ chế tự chủ tài chính và đảm bảo được nguồn lực để đầu tư phát triển, nhưng quá trình mở rộng cơ sở vật chất vẫn gặp nhiều trở ngại. Một phần quỹ đất hiện có vẫn chưa thể đưa vào xây dựng do vướng mắc trong quy hoạch, thủ tục cấp phép và các quy định hành chính liên quan.
Đây cũng là thực trạng chung của nhiều trường đại học công lập, đặc biệt là những cơ sở giáo dục nằm trong khu vực đô thị, nơi việc mở rộng diện tích đất dành cho giáo dục gặp nhiều rào cản”, thầy Thanh cho hay.

Tiến sĩ Thái Doãn Thanh - Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Công thương Thành phố Hồ Chí Minh. (Ảnh: V.D)
Theo thầy Thanh, việc huy động nguồn lực xã hội hóa, đặc biệt là hợp tác công – tư vẫn chưa mang lại hiệu quả như kỳ vọng. Các trường công lập thường gặp khó khăn trong việc tiếp cận các nguồn vốn vay để đầu tư phát triển, trong khi nguồn kinh phí hỗ trợ từ ngân sách Nhà nước vẫn còn hạn chế. Điều này khiến tiến độ nâng cấp, mở rộng cơ sở vật chất tại nhiều trường bị chậm lại, ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo và khả năng đáp ứng nhu cầu học tập ngày càng gia tăng.
Bên cạnh vấn đề về diện tích đất dành cho sinh viên, một thách thức khác đối với các cơ sở giáo dục đại học là quy định về tỷ lệ giảng viên toàn thời gian được bố trí không gian làm việc riêng biệt.
Tiêu chí 3.2 quy định diện tích sàn xây dựng phục vụ đào tạo trên số người học chính quy quy đổi theo trình độ và lĩnh vực đào tạo không nhỏ hơn 2,8 m2; ít nhất 70% giảng viên toàn thời gian được bố trí chỗ làm việc riêng biệt.
Tiến sĩ Thái Doãn Thanh nhận định, để đáp ứng tiêu chuẩn này là một bài toán không đơn giản. Phần lớn diện tích sàn tại Trường Đại học Công thương Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay chủ yếu được ưu tiên dành cho sinh viên, đảm bảo theo tiêu chí 2,8m²/người học.
Mặc dù nhà trường đã tìm cách tối ưu hóa không gian hiện có, song do hạn chế về quỹ đất và cơ sở vật chất, việc bố trí đầy đủ không gian làm việc theo tiêu chuẩn cho toàn bộ đội ngũ giảng viên vẫn gặp nhiều khó khăn và chưa thể đáp ứng hoàn toàn.
Bên cạnh đó, dù đã chủ động xây dựng lộ trình phát triển, Trường Đại học Công Thương Thành phố Hồ Chí Minh vẫn phải đối mặt với nhiều thách thức trong việc hoàn thiện hạ tầng theo tiêu chuẩn đề ra. Các vấn đề liên quan đến quy hoạch đất đai, thủ tục hành chính và chính sách quản lý là những rào cản lớn, đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ giữa nhà trường và các cơ quan chức năng để tháo gỡ, tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình đầu tư xây dựng trong thời gian tới.
Hơn hết, Thông tư số 01 có những tác động tích cực khi đưa ra định hướng chiến lược, giúp các cơ sở giáo dục xây dựng kế hoạch phát triển phù hợp với quy hoạch chung của ngành và chủ trương của Chính phủ.
Đề xuất xây dựng hệ thống dùng chung giữa các cơ sở giáo dục đại học
Theo Tiến sĩ Thái Doãn Thanh, để giải quyết bài toán về cơ sở vật chất cho các cơ sở giáo dục đại học, mô hình phòng thí nghiệm và phòng thực hành dùng chung tại ba khu vực trọng điểm Bắc, Trung, Nam là một giải pháp mang tính lâu dài. Theo đó, các trường đại học có thể thuê dài hạn hoặc hợp tác sử dụng chung nhằm tối ưu hóa nguồn lực và khắc phục những hạn chế về quỹ đất cũng như cơ sở hạ tầng.

Sinh viên Trường Đại học Công thương Thành phố Hồ Chí Minh thực hành. (Ảnh: NTCC)
“Về nguyên tắc, việc sử dụng hạ tầng chung là một giải pháp tối ưu, không chỉ giúp tiết kiệm chi phí mà còn nâng cao hiệu quả khai thác nguồn lực, hạn chế lãng phí. Mô hình này không nên chỉ dừng lại ở sự hợp tác giữa các trường đại học mà còn có thể mở rộng với sự tham gia của doanh nghiệp và các tổ chức sở hữu hạ tầng phục vụ khoa học, công nghệ, giáo dục, từ đó tạo ra một hệ sinh thái chia sẻ bền vững và gia tăng giá trị cho toàn ngành.
Tuy nhiên, rào cản lớn nhất nằm ở hành lang pháp lý. Hiện nay, nhiều quy định vẫn yêu cầu các cơ sở giáo dục đại học phải sở hữu đất, tài sản và hạ tầng thay vì cho phép hình thức thuê dài hạn. Điều này vô tình hạn chế khả năng hợp tác và tận dụng nguồn lực từ các đơn vị khác.
Vì vậy, tôi cho rằng cần có những điều chỉnh phù hợp trong quy định pháp luật nhằm tạo điều kiện cho các trường đại học, bao gồm cả công lập và ngoài công lập được phép thuê dài hạn cơ sở hạ tầng phục vụ giáo dục. Việc này giúp đảm bảo tính công bằng giữa các loại hình cơ sở đào tạo, đồng thời tăng cường huy động nguồn lực xã hội vào giáo dục.
Đặc biệt, các quy định liên quan đến tài sản công, sở hữu đất đai và hạ tầng cần có sự điều chỉnh nhằm tháo gỡ những vướng mắc hiện tại, tạo hành lang pháp lý thuận lợi hơn cho mô hình hợp tác và sử dụng cơ sở vật chất dùng chung”, Tiến sĩ Thái Doãn Thanh bày tỏ.
Đồng quan điểm trên, Tiến sĩ Phạm Kim Thư - Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Công nghệ và Quản lý Hữu nghị cho biết, việc xây dựng những hệ thống dùng chung cho các cơ sở giáo dục đại học là một ý tưởng đáng khuyến khích.
“Trước hết, mô hình này giúp tiết kiệm chi phí đáng kể, bởi đầu tư vào trang thiết bị nghiên cứu, phòng thí nghiệm hay thư viện đòi hỏi nguồn lực tài chính lớn, nếu nhiều trường cùng khai thác, chi phí đầu tư và bảo trì sẽ được phân bổ hợp lý hơn.
Bên cạnh đó, việc dùng chung cơ sở vật chất cũng góp phần tận dụng tối đa tài nguyên, nhất là đối với những thiết bị thực hành đắt tiền nhưng không phải lúc nào cũng được sử dụng hết công suất.
Không chỉ mang lại hiệu quả kinh tế, hệ thống dùng chung còn thúc đẩy nghiên cứu và hợp tác giữa các trường đại học. Sinh viên, giảng viên từ nhiều đơn vị có thể cùng làm việc, trao đổi học thuật, qua đó mở rộng cơ hội hợp tác liên ngành. Đồng thời, chất lượng đào tạo cũng được nâng cao khi các trường có điều kiện tiếp cận nguồn tài nguyên tốt hơn, giúp sinh viên có thêm cơ hội học tập và nghiên cứu trong môi trường hiện đại, giàu tính thực tiễn”, thầy Thư nhận định.

Tiến sĩ Phạm Kim Thư - Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Công nghệ và Quản lý Hữu nghị. (Ảnh: NVCC)
Tuy nhiên, thầy Thư cho rằng, để mô hình hạ tầng dùng chung thực sự phát huy hiệu quả, cần có kế hoạch triển khai cụ thể với các giải pháp đồng bộ.
Thứ nhất, Chính phủ hoặc các trường đại học có thể liên kết để thành lập các trung tâm nghiên cứu, phòng thí nghiệm dùng chung. Đồng thời, cần có một hội đồng quản lý gồm đại diện các trường tham gia nhằm điều phối việc sử dụng, đảm bảo công bằng và hiệu quả.
Thứ hai, việc chia sẻ tài nguyên cũng cần được thực hiện một cách hợp lý. Các trường có thể phân chia lịch sử dụng phòng thí nghiệm theo nhu cầu, ứng dụng công nghệ để đặt lịch, kiểm soát thiết bị, tránh tình trạng lãng phí hoặc quá tải. Ngoài ra, việc xây dựng thư viện số dùng chung cũng sẽ giúp sinh viên từ nhiều trường tiếp cận nguồn tài liệu phong phú hơn.
Thứ ba, hỗ trợ tài chính và chính sách cũng đóng vai trò quan trọng. Nhà nước hoặc doanh nghiệp có thể tham gia tài trợ để đầu tư trang thiết bị hiện đại, đồng thời áp dụng các chính sách ưu đãi cho các trường tham gia hệ thống dùng chung, khuyến khích mở rộng mô hình này.
Cuối cùng, công tác bảo trì và nâng cấp cơ sở vật chất cần được thực hiện định kỳ. Việc sử dụng chung có thể dẫn đến hao mòn nhanh hơn, do đó, cần có kế hoạch bảo trì để đảm bảo trang thiết bị luôn trong trạng thái tốt nhất. Đồng thời, việc cập nhật thiết bị, tài liệu học tập cũng cần được chú trọng nhằm đáp ứng kịp thời nhu cầu nghiên cứu và đào tạo.
Còn theo Đại biểu Quốc hội Trịnh Thị Tú Anh - Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Lâm Đồng, việc xây dựng hệ thống dùng chung và triển khai cơ chế hỗ trợ thuê dài hạn là giải pháp cần thiết, khả thi nhằm tháo gỡ khó khăn về cơ sở vật chất cho các cơ sở giáo dục đại học. Điều này đặc biệt quan trọng trong bối cảnh quỹ đất hạn chế và chi phí đầu tư ngày càng cao tại các đô thị lớn.
“Trước hết, hệ thống dùng chung giúp tối ưu hóa nguồn lực, tránh tình trạng đầu tư dàn trải, lãng phí và nâng cao hiệu suất sử dụng trang thiết bị. Thay vì mỗi trường phải đầu tư riêng lẻ vào các phòng thí nghiệm đắt đỏ, hệ thống dùng chung sẽ đảm bảo thiết bị được khai thác tối đa công suất.
Bên cạnh đó, mô hình này còn giúp tăng cường hợp tác học thuật. Khi sinh viên, giảng viên từ nhiều trường có cơ hội sử dụng chung cơ sở vật chất, họ có thể trao đổi, học hỏi và thúc đẩy nghiên cứu liên ngành.
Một lợi ích quan trọng khác là giảm áp lực tài chính. Chi phí đầu tư ban đầu cho cơ sở vật chất và chi phí vận hành, bảo trì về lâu dài sẽ được chia sẻ giữa nhiều đơn vị, giúp giảm gánh nặng cho từng trường. Đây là một giải pháp bền vững, đặc biệt trong bối cảnh ngân sách giáo dục còn nhiều hạn chế”, bà Tú Anh nêu quan điểm.

Đại biểu Quốc hội Trịnh Thị Tú Anh - Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Lâm Đồng. (Ảnh: quochoi.vn)
Bên cạnh hệ thống dùng chung, việc tạo điều kiện để các cơ sở giáo dục đại học thuê cơ sở vật chất dài hạn cũng là một giải pháp quan trọng. Trong bối cảnh nhiều trường còn gặp khó khăn về quỹ đất, việc cho phép thuê dài hạn sẽ giúp các trường mở rộng quy mô nhanh chóng mà không cần ngay lập tức sở hữu đất hoặc xây dựng cơ sở hạ tầng riêng.
Mô hình này cũng khuyến khích sự tham gia của tư nhân vào lĩnh vực giáo dục. Các doanh nghiệp có thể đầu tư xây dựng cơ sở vật chất và cho các trường đại học thuê theo hình thức hợp tác công – tư (PPP). Điều này không chỉ giảm áp lực tài chính cho Nhà nước mà còn thúc đẩy sự phát triển của hệ sinh thái giáo dục, nghiên cứu theo hướng hiện đại và bền vững hơn.
Ngoài ra, để giải pháp này có thể triển khai hiệu quả, nữ đại biểu đề xuất cần có một kế hoạch cụ thể với 3 giai đoạn bao gồm:
Giai đoạn 1 là khảo sát và lập kế hoạch. Trước tiên, Bộ Giáo dục và Đào tạo cần chủ trì khảo sát nhu cầu thực tế của các cơ sở giáo dục đại học trên toàn quốc. Dựa trên kết quả khảo sát, cần xây dựng khung pháp lý và các tiêu chuẩn kỹ thuật cho hệ thống dùng chung, đồng thời xác định các khu vực chiến lược tại 3 miền Bắc, Trung, Nam để triển khai thí điểm.
Giai đoạn 2 là triển khai thí điểm và điều chỉnh chính sách. Trong giai đoạn này, các trung tâm dùng chung sẽ được thành lập tại mỗi vùng, ưu tiên các ngành có nhu cầu thực hành cao như kỹ thuật, y dược, công nghệ thông tin.
Đồng thời, cần ban hành chính sách hỗ trợ tài chính cho các cơ sở giáo dục đại học thuê dài hạn, đảm bảo cơ chế hoạt động minh bạch và hiệu quả. Việc kiểm tra, đánh giá cũng cần được thực hiện định kỳ 6 tháng/lần để kịp thời điều chỉnh, khắc phục những bất cập trong quá trình thực hiện.
Giai đoạn 3 là mở rộng và duy trì. Sau khi thí điểm, cần tổng kết, đánh giá hiệu quả mô hình để có phương án mở rộng ra toàn quốc. Cần thiết lập cơ quan kiểm định độc lập để giám sát việc tuân thủ các tiêu chuẩn về cơ sở vật chất.
Bên cạnh đó, các hệ thống thông tin dùng chung như học liệu số, cơ sở dữ liệu nghiên cứu cũng cần được tích hợp nhằm tối ưu hóa chi phí vận hành và đảm bảo sự kết nối giữa các trường.
Với lộ trình chặt chẽ và cơ chế giám sát minh bạch, việc triển khai mô hình này không chỉ giúp các trường đại học đáp ứng tiêu chuẩn cơ sở vật chất một cách hiệu quả mà còn góp phần nâng cao chất lượng đào tạo, nghiên cứu trong dài hạn.
Đây là hướng đi phù hợp với xu thế giáo dục hiện đại, giúp tối ưu hóa nguồn lực và mở ra nhiều cơ hội hợp tác trong lĩnh vực giáo dục đại học tại Việt Nam.
Hoàn thiện cơ chế pháp lý về xây dựng và sử dụng đất
Việc nâng cao cơ sở vật chất để đáp ứng chuẩn theo Thông tư số 01 là cần thiết nhằm đảm bảo chất lượng đào tạo. Tuy nhiên, trong bối cảnh nguồn lực tài chính hạn chế và quỹ đất khan hiếm, đặc biệt tại các đô thị lớn, việc các trường đại học phải tự xoay xở thông qua nguồn thu học phí là áp lực đáng kể.
Ngoài ra, nhiều trường đại học gặp vướng mắc về cấp quyền sử dụng đất và thủ tục đầu tư xây dựng là một thực tế cần được giải quyết kịp thời. Những bất cập này không chỉ ảnh hưởng đến nâng cấp cơ sở vật chất, mà còn cản trở việc mở rộng quy mô đào tạo, gây khó khăn cho công tác giảng dạy và nghiên cứu.
Theo Đại biểu Trịnh Thị Tú Anh, việc tháo gỡ khó khăn trong đầu tư xây dựng cơ sở giáo dục đại học cần một hệ thống pháp lý đồng bộ, giúp đẩy nhanh tiến độ triển khai.
Trước hết, cần ưu tiên cấp quyền sử dụng đất dài hạn cho các trường công lập để đảm bảo cơ sở pháp lý vững chắc. Đồng thời, áp dụng cơ chế "một cửa liên thông" giữa Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Xây dựng để giảm chồng chéo trong thủ tục cấp phép.
Bên cạnh đó, cần rút ngắn thời gian thẩm định, áp dụng quy trình đặc thù cho các dự án giáo dục với thời gian giải quyết không quá 90 ngày, tạo điều kiện cho các trường nhanh chóng triển khai dự án. Việc “số hóa” toàn bộ quy trình xét duyệt cũng là giải pháp quan trọng để tăng tính minh bạch, giảm thiểu sai sót.
Ngoài ra, cần bổ sung cơ chế giao đất không thu tiền hoặc cho thuê với giá ưu đãi dài hạn cho các trường đại học có nhu cầu mở rộng. Điều này giúp các trường có điều kiện pháp lý thuận lợi để phát triển cơ sở hạ tầng, đặc biệt tại các thành phố lớn, nơi quỹ đất hạn chế.
Để đảm bảo hiệu quả thực thi, cần thành lập cơ quan giám sát chuyên trách thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo, theo dõi tiến độ các dự án xây dựng. Đồng thời, Bộ cần báo cáo định kỳ lên Quốc hội để kịp thời điều chỉnh chính sách nếu phát sinh vướng mắc.
Các trường đại học cũng cần công khai định kỳ về việc sử dụng ngân sách và hiệu quả đầu tư cơ sở vật chất. Quy định này giúp tăng cường trách nhiệm giải trình, tạo sự minh bạch và niềm tin từ Nhà nước cũng như xã hội.
Việc cải cách thủ tục hành chính, trao quyền tự chủ cho các trường và thiết lập cơ chế giám sát chặt chẽ sẽ giúp cơ sở giáo dục đại học phát triển bền vững, nâng cao chất lượng đào tạo, đáp ứng nhu cầu thực tiễn.