Khó đạt chuẩn về diện tích đất, CSGDĐH kiến nghị giải pháp nâng hiệu quả đầu tư

Áp dụng CSVC dùng chung giúp trường đại học ứng phó trước thay đổi nhanh chóng của công nghệ, đặc biệt là trong đào tạo lĩnh vực công nghệ thông tin.

Thông tư số 01/2024/TT-BGDĐT về Chuẩn cơ sở giáo dục đại học quy định từ năm 2030, diện tích đất (có hệ số theo vị trí khuôn viên) tính bình quân trên một người học chính quy quy đổi theo trình độ và lĩnh vực đào tạo của mỗi cơ sở giáo dục đại học là không nhỏ hơn 25m2. Trong đó, hệ số vị trí của khuôn viên đối với các khuôn viên nằm trong địa giới các quận của các thành phố trực thuộc Trung ương được tính bằng 2,5 lần và các vị trí còn lại được tính bằng 1 lần.

Đáng nói, quy hoạch mạng lưới cơ sở giáo dục đại học và sư phạm thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 có nêu “chấm dứt hoạt động trước năm 2028 và giải thể trước năm 2030 đối với cơ sở giáo dục đại học, phân hiệu của cơ sở giáo dục đại học không đạt chuẩn hoặc không hoàn thành xác lập vị trí pháp lý theo quy định của pháp luật.

Theo tìm hiểu của phóng viên, hiện nay không ít cơ sở giáo dục đại học nằm trong khu vực nội đô của Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh đang kiếm tìm quỹ đất ở các tỉnh lân cận để đủ diện tích như quy định của Thông tư số 01, đồng thời đáp ứng yêu cầu của quy hoạch mạng lưới cơ sở giáo dục đại học. Tuy nhiên, để thực sự tháo gỡ khó khăn về diện tích đất, lãnh đạo cơ sở giáo dục đại học cho rằng quy định cần linh hoạt hơn, cũng như đề xuất giải pháp giúp cơ sở giáo dục đại học đạt yêu cầu diện tích đất.

Nên cho phép tính diện tích cơ sở vật chất dùng chung vào diện tích đất của trường

Trao đổi với phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Đàm Sao Mai - Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh cho rằng, việc Thông tư số 01 đặt ra tiêu chí diện tích đất tính bình quân trên một người học chính quy quy đổi rất quan trọng, nhằm đảm bảo chất lượng cơ sở vật chất phục vụ đào tạo và nghiên cứu, tuy nhiên cũng khiến cơ sở giáo dục đại học đối mặt với nhiều khó khăn.

Hiện nay, sinh viên ngày càng mong muốn được học tập tại các trường đại học đặt ở thành phố lớn, nơi có nhiều cơ hội việc làm và phát triển. Hơn nữa, giá đất tại các đô thị ngày càng tăng cao, trong khi quỹ đất nội đô lại khan hiếm. Chưa kể, việc mở rộng diện tích đất của các trường đại học tại khu vực đô thị lớn có nhiều khó khăn về ngân sách, quy hoạch và thủ tục hành chính. Do đó, cơ sở giáo dục đại học nên được áp dụng mô hình chia sẻ cơ sở vật chất giữa các đơn vị. Nếu cho phép áp dụng hệ thống cơ sở vật chất dùng chung không chỉ giúp giảm áp lực về diện tích đất mà còn tối ưu hóa trong sử dụng nguồn lực, đồng thời nâng cao hiệu quả đầu tư.

 Phó Giáo sư, Tiến sĩ Đàm Sao Mai - Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh. (Ảnh: NVCC)

Phó Giáo sư, Tiến sĩ Đàm Sao Mai - Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh. (Ảnh: NVCC)

Chỉ ra một số ưu điểm, cô Mai cho biết, việc áp dụng mô hình chia sẻ cơ sở vật chất giữa các đơn vị được thực hiện thông qua liên kết giữa các cơ sở giáo dục đại học. Các trường đại học trên cùng địa bàn có thể hợp tác để cùng đầu tư và sử dụng chung một số cơ sở vật chất như: phòng thí nghiệm và cơ sở thực hành, đặc biệt là các phòng thí nghiệm chuyên sâu đòi hỏi đầu tư lớn; trung tâm công nghệ cao và không gian khởi nghiệp, đáp ứng nhu cầu thực tập đối với một số ngành (như ngành Công nghệ thông tin, Trí tuệ nhân tạo); sử dụng chung cơ sở thực tập chuyên ngành, giúp tối ưu hóa chi phí đầu tư và nâng cao chất lượng đào tạo thực tế; đầu tư và sử dụng chung công trình phục vụ giáo dục thể chất, giáo dục quốc phòng an ninh.

Bên cạnh đó, mô hình chia sẻ cơ sở vật chất dùng chung còn giúp giảm chi phí đầu tư ban đầu và chi phí vận hành, bảo trì. Đồng thời, giúp tối ưu hóa hiệu suất sử dụng cơ sở vật chất, tránh lãng phí nguồn lực; giúp cơ sở giáo dục đại học ứng phó hiệu quả với sự thay đổi nhanh chóng của công nghệ, đặc biệt là trong đào tạo lĩnh vực công nghệ thông tin.

Khi có cơ sở vật chất dùng chung giữa các đơn vị sẽ tạo điều kiện giúp sinh viên tiếp cận với cơ sở vật chất hiện đại, đáp ứng yêu cầu đào tạo thực tế. Từ đó cũng có thể thúc đẩy hợp tác giữa các trường đại học, phù hợp xu thế quốc tế hóa, trao đổi, hợp tác, toàn cầu hóa.

 Sinh viên Trường Đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh trong giờ thực hành. (Nguồn ảnh: website nhà trường)

Sinh viên Trường Đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh trong giờ thực hành. (Nguồn ảnh: website nhà trường)

Tuy nhiên, để giải pháp chia sẻ cơ sở vật chất giữa các đơn vị đạt hiệu quả cao, về mặt pháp lý, Thông tư số 01 cần được bổ sung các điều khoản cho phép trường đại học tính diện tích thuê/sử dụng chung vào diện tích đất tính bình quân trên một người học chính quy quy đổi theo trình độ và lĩnh vực đào tạo. Ví dụ như quy định rõ tỷ lệ diện tích thuê/sử dụng chung được tính vào diện tích đất của trường (có thể áp dụng hệ số quy đổi phù hợp); xây dựng quy trình đánh giá, công nhận chất lượng và mức độ phù hợp của các cơ sở vật chất dùng chung; quy định về thời hạn tối thiểu (thường là 5 năm) của hợp đồng thuê/sử dụng chung để đảm bảo tính ổn định.

Về cơ chế đầu tư và tài chính, cần xây dựng cơ chế đầu tư theo phương thức đối tác công tư cho các dự án cơ sở vật chất dùng chung. Đồng thời, thành lập quỹ hỗ trợ các trường đại học áp dụng mô hình sử dụng chung cơ sở vật chất; thiết lập chính sách hỗ trợ lãi suất và thời gian ân hạn dài đối với các đơn vị cung cấp cơ sở vật chất dùng chung cho trường đại học. Ngoài ra, cần có ngân sách hỗ trợ đối với các dự án liên kết đầu tư cho trường đại học.

Về hệ thống quản lý và vận hành, cần xây dựng nền tảng công nghệ quản lý việc sử dụng chung cơ sở vật chất như hệ thống đặt lịch trực tuyến; quy định về trách nhiệm đối với ban quản lý về bảo trì, bảo dưỡng và nâng cấp cơ sở vật chất dùng chung; thiết lập cơ chế giám sát và đánh giá hiệu quả sử dụng; lấy ý kiến phản hồi thường xuyên từ giảng viên, người học để không ngừng cải thiện chất lượng dịch vụ hỗ trợ đào tạo.

Đồng thời, cần cho phép liên kết các trường với nhu cầu xã hội, doanh nghiệp có cơ sở vật chất dôi dư trên cơ sở chính sách ưu đãi cho doanh nghiệp khi tham gia giáo dục đào tạo tương tự như các chính sách hiện hành theo hướng xanh hóa quá trình sản xuất kinh doanh.

Có thể kể đến việc hợp tác doanh nghiệp - trường đại học. Các trường đại học có thể thiết lập quan hệ hợp tác sử dụng chung cơ sở vật chất với các đơn vị khác trên địa bàn. Song, cần xây dựng cơ chế cho phép tính diện tích cơ sở thực hành, thực tập tại doanh nghiệp đối tác vào diện tích đất của trường. Giải pháp này không chỉ giảm nhu cầu đầu tư cơ sở vật chất từ nhà trường, tăng tính thực tiễn trong đào tạo mà còn tạo nguồn thu từ việc doanh nghiệp thuê không gian, tăng cơ hội việc làm cho sinh viên.

“Việc điều chỉnh Thông tư số 01 theo hướng linh hoạt trong quy định về diện tích đất, cho phép tính diện tích cơ sở vật chất dùng chung là giải pháp khả thi để giải quyết bài toán về diện tích đất của các trường đại học, đặc biệt là các trường ở khu đô thị lớn.

Giải pháp này không chỉ giúp các trường đáp ứng tiêu chuẩn mà còn tối ưu hóa nguồn lực, nâng cao chất lượng đào tạo và thúc đẩy sự hợp tác giữa các cơ sở giáo dục”, cô Mai cho biết.

Ngoài ra, cô Mai cho rằng Thông tư số 01 cũng nên có thêm điều chỉnh để tạo thuận lợi cho các trường trong thực hiện quy định diện tích đất.

Trước hết, Thông tư số 01 nên sửa đổi phương pháp tính toán. Cụ thể, cần điều chỉnh cách tính diện tích đất theo đặc thù ngành đào tạo. Ví dụ, lĩnh vực máy tính và công nghệ thông tin nên giảm hệ số diện tích của lĩnh vực đào tạo KĐT từ 1,2 còn 1,0 thì sẽ phù hợp hơn với thực tế của khoa học công nghệ.

Thông tư số 01 cần áp dụng hệ số khác nhau theo vùng miền, không chỉ phân biệt giữa quận của thành phố trực thuộc Trung ương và các khu vực còn lại.

Phân loại trường đại học theo định hướng (nghiên cứu, ứng dụng) để có yêu cầu diện tích đất phù hợp.

Ngoài ra, cần tính toán dựa trên số lượng người học thực tế sử dụng cơ sở vật chất cùng một thời điểm, không chỉ dựa trên tổng số người học.

Bên cạnh đó, Thông tư số 01 cũng cần bổ sung quy định cho phép giảm yêu cầu về diện tích đất đối với các trường đầu tư hệ thống phòng thí nghiệm ảo, mô phỏng kỹ thuật số, thư viện số; ứng dụng trí tuệ nhân tạo vào các nền tảng dạy và học trực tiếp và trực tuyến,… theo số lượng chương trình chi tiết đã được áp dụng. Đồng thời, xây dựng tiêu chuẩn về chất lượng đào tạo qua các công nghệ VR/AR, đảm bảo đáp ứng chuẩn đầu ra.

Có thể thấy, những sửa đổi kể trên nhằm đảm bảo tính công bằng, phù hợp với đặc thù của từng loại hình trường, ngành đào tạo, tạo điều kiện cho các trường đáp ứng được yêu cầu một cách thực chất. Đồng thời, giúp giảm áp lực về diện tích đất không cần thiết, phản ánh đúng nhu cầu thực tế về không gian đào tạo.

Một số đề xuất giúp cơ sở giáo dục đại học đạt yêu cầu về diện tích đất

Gợi ý một số giải pháp giúp trường đại học có thể đạt được yêu cầu về diện tích đất, cô Mai đề xuất áp dụng cơ chế “giáo dục đổi đất”. Cụ thể, tại các siêu đô thị và thành phố lớn, có thể phát triển mô hình nhà nước bồi thường thu hồi đất để giao cho các trường đào tạo theo đặt hàng với mức học phí ưu đãi hoặc miễn phí để phục vụ đột phá về phát triển khoa học công nghệ cho địa phương. Bên cạnh đó, xây dựng các trung tâm đào tạo nghề, học tập cộng đồng kết hợp với cơ sở đào tạo chính quy. Ngoài ra, thực hiện các dự án nghiên cứu phục vụ phát triển địa phương như một phần của thỏa thuận; xây dựng cơ chế công nhận diện tích đất trong mô hình giáo dục đổi đất.

 Nguồn ảnh: website nhà trường

Nguồn ảnh: website nhà trường

Đề xuất áp dụng hình thức sở hữu/sử dụng đất đai sáng tạo cũng được cô Mai đưa ra. Cụ thể như cần xây dựng quỹ đất giáo dục quốc gia, cho phép các trường đại học thuê dài hạn với chi phí ưu đãi. Áp dụng mô hình "đất đổi dịch vụ" - nhà trường được giao đất với điều kiện cung cấp dịch vụ giáo dục, nghiên cứu cho cộng đồng. Khuyến khích các địa phương dành quỹ đất ưu tiên cho giáo dục đại học với cơ chế ưu đãi về giá, thời hạn sử dụng.

Hoặc có thể phát triển mô hình cộng sinh kinh tế (Nhà nước xây dựng chính sách thúc đẩy mô hình cộng sinh kinh tế, trước hết áp dụng đối với một số doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, trong đó trường đại học cung cấp dịch vụ giáo dục, nghiên cứu cho đơn vị đối tác để đổi lấy quyền sử dụng không gian; phát triển quan hệ đối tác với các khu công nghiệp, khu công nghệ cao để chia sẻ không gian).

Ngoài ra, theo cô Mai, nên cho phép áp dụng một số mô hình để tháo gỡ khó khăn cho trường đại học về diện tích đất như: phát triển khu học xá đa thành phần (tạo cơ chế cho phép các doanh nghiệp thuê không gian dài hạn trong khuôn viên trường); mô hình đào tạo trải nghiệm thực địa (cần phát triển chương trình đào tạo sử dụng phương pháp dạy và học phục vụ cộng đồng, các chương trình đòi hỏi kiến thức thực tế với thời gian đáng kể dành cho học tập thực địa ngoài campus; xây dựng quy định cho phép tính diện tích các địa điểm thực địa vào diện tích đất phục vụ đào tạo; phát triển quan hệ đối tác với các khu bảo tồn, doanh nghiệp, cộng đồng để tổ chức các hoạt động học tập thực địa; đầu tư vào công nghệ di động để hỗ trợ học tập từ xa/thực địa).

"Để việc cho phép tính diện tích cơ sở vật chất dùng chung tạo thành hệ thống toàn diện, sáng tạo nhằm giải quyết vấn đề về diện tích đất cho các cơ sở giáo dục đại học, cần sửa đổi, bổ sung Thông tư số 01 theo hướng linh hoạt hơn, công nhận đa dạng các hình thức quyền sử dụng đất hoặc áp dụng các trọng số quy đổi phù hợp; phát triển kế hoạch triển khai từng bước, ưu tiên các giải pháp khả thi, có tính đột phá và phù hợp với điều kiện thực tế của từng trường; thành lập quỹ hỗ trợ đổi mới không gian giáo dục đại học, cung cấp nguồn lực cho các trường thực hiện mô hình mới.

Ngoài ra, cần tổ chức đào tạo, hội thảo chia sẻ kinh nghiệm về các mô hình không gian giáo dục mới cho đội ngũ quản lý, giảng viên. Bên cạnh đó, cần thúc đẩy hợp tác giữa các trường đại học, doanh nghiệp địa phương và cộng đồng trong việc phát triển không gian giáo dục”, cô Mai chia sẻ.

Tuy nhiên, để thực hiện thành công các mô hình, cô Mai cho rằng cần có sự vào cuộc đồng bộ từ các cơ quan quản lý nhà nước, các trường đại học. Doanh nghiệp sử dụng lao động (đặc biệt là các doanh nghiệp kinh tế tư nhân) và các đơn vị liên quan, đồng thời xây dựng cơ chế chính sách rõ ràng, minh bạch và khả thi. Điều này sẽ góp phần xây dựng hệ thống giáo dục đại học Việt Nam phát triển bền vững, hiệu quả và chất lượng.

Ngọc Mai

Nguồn Giáo Dục VN: https://giaoduc.net.vn/kho-dat-chuan-ve-dien-tich-dat-csgddh-kien-nghi-giai-phap-nang-hieu-qua-dau-tu-post250087.gd
Zalo