Khi sắp xếp viện nghiên cứu trong CSGDĐH cần xác định rõ tiêu chí và hướng phát triển
Rà soát, sắp xếp hệ thống viện nghiên cứu trong trường đại học là bước đi hợp lý nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động khoa học, đáp ứng yêu cầu phát triển mới.
Tại phiên họp lần thứ ba của Ban Chỉ đạo Chính phủ về khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số và Đề án 06, Thủ tướng Phạm Minh Chính đã chỉ đạo các nhiệm vụ trọng tâm 6 tháng cuối năm 2025. Trong đó, Thủ tướng giao Bộ Giáo dục và Đào tạo xây dựng đề án rà soát, sắp xếp hệ thống các viện nghiên cứu trong cơ sở giáo dục đại học, hoàn thành trong quý III/2025. [1]
Theo lãnh đạo các viện, đây là cơ hội để tháo gỡ vướng mắc về cơ chế hoạt động, phân bổ nhân lực và nguồn lực tài chính, đồng thời định hình lại chiến lược phát triển theo hướng tập trung hơn. Khi bộ máy được sắp xếp hợp lý, các viện sẽ có thêm thời gian nghiên cứu chuyên sâu, mở rộng hợp tác liên ngành, qua đó nâng cao chất lượng học thuật và đóng góp thiết thực cho xã hội.
Viện nghiên cứu thuộc trường đại học còn gặp nhiều khó khăn trong quá trình hoạt động
Trao đổi với phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Trần Quang Huy - Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Nano, Đại học Phenikaa chia sẻ: “Viện nghiên cứu trong trường đại học đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy tri thức, đổi mới sáng tạo và phát triển xã hội. Hiện tại, khó khăn lớn nhất của viện là các nhà nghiên cứu khoa học phải cân bằng, đảm bảo giữa khối lượng giảng dạy và chất lượng nghiên cứu".
Theo thầy Huy, nếu dành nhiều thời gian để lên lớp, quỹ thời gian và năng lượng tập trung cho nghiên cứu sẽ bị thu hẹp. Ngược lại, nếu chỉ chú trọng nghiên cứu, thời lượng và chất lượng giảng dạy có thể bị ảnh hưởng. Vì vậy, các trường đại học thường bố trí giảng viên của viện nghiên cứu tham gia vào đào tạo sau đại học, nơi giảng dạy gắn liền với nghiên cứu chuyên sâu, thay vì phân công quá nhiều giờ đứng lớp ở bậc đại học.
Thực tế cho thấy, giảng dạy và nghiên cứu là hai hoạt động bổ trợ lẫn nhau. Nếu thiếu nghiên cứu, môi trường học thuật sẽ khó phát huy tính sáng tạo, giảng viên ít có điều kiện cập nhật kiến thức chuyên môn và sinh viên cũng ít có cơ hội tiếp cận công nghệ và tri thức mới.
Khác với các công ty startup (khởi nghiệp) hay spin-off (công ty chuyển giao công nghệ), viện nghiên cứu không trực tiếp tạo ra giá trị kinh tế mà đóng góp chủ yếu về mặt học thuật, thúc đẩy hợp tác, thu hút tài trợ, phát triển công nghệ, hỗ trợ đào tạo và nâng cao uy tín cho trường đại học. Khi phải chịu áp lực giảng dạy quá nhiều hoặc phải tạo ra nguồn thu, các viện có thể đi lệch mục tiêu ban đầu, làm ảnh hưởng đến chất lượng nghiên cứu cũng như sự phát triển tri thức trong nhà trường.
"Vì vậy, việc rà soát, sắp xếp hệ thống viện nghiên cứu trong cơ sở giáo dục đại học cần được cân nhắc kỹ lưỡng, dựa trên đặc điểm tổ chức của từng loại hình cơ sở. Khi được tổ chức hợp lý, đội ngũ nhà khoa học sẽ có điều kiện tập trung vào nghiên cứu chuyên sâu, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, hợp tác liên ngành và hỗ trợ đào tạo một cách hiệu quả.
Thông qua hoạt động nghiên cứu, họ không chỉ tạo ra giá trị học thuật mới, công nghệ mới mà còn góp phần hình thành đội ngũ khoa học kế cận có trình độ cao", Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Nano, Đại học Phenikaa nêu quan điểm.

Phó Giáo sư, Tiến sĩ Trần Quang Huy - Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Nano, Đại học Phenikaa. Ảnh: NVCC.
Theo thầy Huy, để việc rà soát, sắp xếp hệ thống viện nghiên cứu đạt hiệu quả, trước hết, mỗi đơn vị nghiên cứu cần được trao quyền tự chủ trong hoạt động học thuật, có sự hỗ trợ và chỉ dẫn rõ ràng từ trường chủ quản trong việc hợp tác, chuyển giao công nghệ và thương mại hóa sản phẩm. Định hướng nghiên cứu của viện cần có sự phù hợp với chiến lược phát triển chung của nhà trường cũng như ưu tiên phát triển công nghệ cốt lõi. Ví dụ, tập trung vào 11 nhóm công nghệ chiến lược trong Quyết định số 1131/QĐ-TTg Thủ tướng Chính phủ đã ký ngày 12/6/2025.
Bên cạnh đó, giảng viên làm việc tại viện nghiên cứu cần được giảm tải khối lượng giảng dạy ở bậc đại học, hoặc có hình thức chuyển đổi phù hợp từ các sản phẩm khoa học khác để có thêm thời gian dành cho nghiên cứu chuyên sâu.
Hiện nay, theo Thông tư 20/2020/TT-BGDĐT của Bộ Giáo dục và Đào tạo, định mức giờ chuẩn giảng dạy của giảng viên trong một năm học được quy định từ 200-350 giờ chuẩn giảng dạy (tương đương từ 600 đến 1.050 giờ hành chính); trong đó, giờ chuẩn giảng dạy trực tiếp trên lớp (hoặc giảng dạy trực tuyến) phải đảm bảo tối thiểu 50% định mức quy định.
Từ quy định trên, nhà trường có thể áp dụng cơ chế linh hoạt trong đánh giá công việc, cho phép điều chỉnh tỉ lệ giữa nhiệm vụ giảng dạy và nghiên cứu tùy theo định hướng chuyên môn của viện nghiên cứu.
Cụ thể, giảng viên tập trung giảng dạy sẽ được áp dụng hệ số đánh giá giảng dạy cao hơn, còn tham gia nghiên cứu chuyên sâu tại viện nghiên cứu sẽ được giảm phần nghĩa vụ giảng dạy. Thay vào đó, có thể thay thế bằng bằng sản phẩm nghiên cứu như bài báo khoa học, sáng chế, giải pháp hữu ích hoặc chuyển giao công nghệ. Việc này nhằm tạo điều kiện phát huy hiệu quả vai trò nghiên cứu và đóng góp vào sự phát triển học thuật chung của nhà trường.

Nghiên cứu sinh đang làm thí nghiệm tại Viện Nghiên cứu Nano, Đại học Phenikaa. Ảnh: Viện cung cấp
Cùng bàn về vấn đề này, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Lê Kiều Hiệp - Phó Viện trưởng Viện Công nghệ Năng lượng (Đại học Bách khoa Hà Nội) cho biết, hiện tại, Đại học Bách khoa Hà Nội có 10 đơn vị đào tạo, 6 viện nghiên cứu. Nhiệm vụ chính của các viện là thực hiện nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ trong nhiều lĩnh vực; chuyển giao công nghệ cho doanh nghiệp và xã hội; tham gia đào tạo sau đại học; tư vấn khoa học - kỹ thuật. Viện cũng đóng vai trò kết nối giữa nhà trường với doanh nghiệp và các tổ chức trong, ngoài nước, góp phần thúc đẩy đổi mới sáng tạo, ứng dụng thực tiễn. Tuy nhiên, hiện nay, viện nghiên cứu còn gặp một số khó khăn.
Trước hết, các nhóm nghiên cứu vẫn chủ yếu hoạt động đơn ngành, chưa kết nối hiệu quả để thực hiện nhiệm vụ liên ngành. Đội ngũ tổng công trình sư, nghiên cứu viên cao cấp chưa được hình thành để thực hiện việc lãnh đạo nhóm nghiên cứu liên ngành, thực hiện nhiệm vụ công nghệ chiến lược.
Mặc dù, nhiều nhóm nghiên cứu trẻ đã hình thành và bắt đầu khẳng định được năng lực chuyên môn, nhưng để đội ngũ này thực sự phát huy năng lực, tiềm năng nghiên cứu, cần xây dựng cơ chế vận hành đồng bộ và linh hoạt hơn.
Ngoài ra, việc sử dụng thiết bị nghiên cứu, chia sẻ dữ liệu giữa các đơn vị và đảm bảo nguồn tài chính cho hoạt động khoa học còn rời rạc, thiếu sự phối hợp. Điều này khiến nhiều ý tưởng sáng tạo dù tiềm năng nhưng khó triển khai, dẫn đến lãng phí nguồn lực cũng như không phát huy hết giá trị của đội ngũ nghiên cứu.
Cơ chế đặt hàng, đầu tư và triển khai nghiên cứu vẫn còn chậm, chưa theo kịp tốc độ đổi mới dẫn tới các sáng kiến dễ bị bỏ dở giữa chừng. Việc này không chỉ làm giảm động lực của nhà khoa học mà còn ảnh hưởng đến chất lượng và hiệu quả của kết quả nghiên cứu.
Bên cạnh đó, dù đã có đầy đủ quy định pháp lý để thực hiện giải ngân nhưng hoạt động nghiên cứu tại viện vẫn gặp rào cản về tài chính. Nguyên nhân là do sự khác biệt về cơ chế quản lý tài chính của Nhà nước và nhu cầu thực tiễn từ phía doanh nghiệp. Trong khi quy trình giải ngân ngân sách nhà nước yêu cầu tuân thủ nghiêm ngặt các bước dự toán, thẩm định, phê duyệt và tất toán, thì doanh nghiệp lại mong muốn tiến độ linh hoạt, phương thức thanh toán nhanh chóng, theo sát nhịp độ triển khai dự án.
Điều này khiến quá trình phối hợp giữa viện và đối tác ngoài công lập bị gián đoạn, thậm chí bỏ lỡ cơ hội hợp tác. Một số nhiệm vụ nghiên cứu có tiềm năng ứng dụng cao nhưng bị trì hoãn hoặc không thể triển khai đúng thời điểm do vướng mắc ở khâu giải ngân.
Không chỉ vậy, kết quả nghiên cứu hình thành khó định giá chính xác nên việc chuyển giao gặp nhiều khó khăn, làm giảm hiệu quả sử dụng ngân sách, ảnh hưởng đến uy tín, năng lực cạnh tranh của đơn vị nghiên cứu trên thị trường khoa học - công nghệ.
Vì vậy, để đảm bảo tiến độ và hiệu quả của các dự án nghiên cứu, cần điều chỉnh về cơ chế tài chính, đặc biệt trong khoản chi phục vụ hoạt động phối hợp với doanh nghiệp. Việc thiết kế khung vận hành linh hoạt, phù hợp với đặc thù của nghiên cứu ứng dụng và đổi mới sáng tạo là điều cấp thiết.

Phó Giáo sư, Tiến sĩ Lê Kiều Hiệp (áo kẻ) - Phó Viện trưởng Viện Công nghệ Năng lượng (Đại học Bách khoa Hà Nội) và nhóm sinh viên ngành Kỹ thuật Nhiệt. Ảnh: website nhà trường.
Cần xác định rõ vai trò của Nhà nước trong việc đặt hàng nghiên cứu
Theo Phó Viện trưởng Viện Công nghệ Năng lượng (Đại học Bách khoa Hà Nội), việc rà soát, sắp xếp hệ thống viện nghiên cứu trong các cơ sở giáo dục đại học là bước đi hợp lý, xuất phát từ yêu cầu nâng cao hiệu quả hoạt động khoa học và đổi mới sáng tạo. Thực tế cho thấy, còn nhiều đơn vị nghiên cứu hoạt động ở quy mô nhỏ, chưa được tổ chức đồng bộ.
Việc sắp xếp hợp lý sẽ giúp tinh gọn bộ máy, mở ra cơ hội tham gia dự án mang tính liên ngành, liên lĩnh vực. Khi tổ chức theo hướng tập trung, các viện có điều kiện thuận lợi hơn để tiếp cận nguồn lực từ Nhà nước, tham gia chương trình phát triển trọng điểm và thực hiện nhiệm vụ kiểm soát, đánh giá hiệu quả một cách bài bản, hệ thống.
Tuy nhiên, khi tiến hành sắp xếp hệ thống đơn vị nghiên cứu trong trường đại học, cần xác định rõ tiêu chí và định hướng phát triển lâu dài. Đây là điều kiện cần thiết để nâng cao năng lực thực thi, tránh chồng chéo cũng như thúc đẩy hiệu quả đầu ra của hoạt động nghiên cứu. Quan trọng nhất, phải tập trung đầu tư vào nguồn nhân lực. Hiện nay, đội ngũ này vẫn còn bị phân tán, thiếu sự liên kết và chưa được hỗ trợ đầy đủ về tài chính cũng như điều kiện làm việc để theo đuổi các nghiên cứu chuyên sâu.
Thầy Hiệp cho rằng, cần xác định rõ vai trò của Nhà nước trong việc đặt hàng nghiên cứu. Với vai trò điều phối và định hướng, Nhà nước có thể chủ động giao nhiệm vụ, phát hiện vấn đề và đầu tư nguồn lực một cách phù hợp, từ con người đến cơ sở vật chất với chiến lược rõ ràng và nhất quán.
Bên cạnh đó, việc tổ chức nhân sự trong nghiên cứu khoa học cần được nhìn nhận theo hướng linh hoạt và hiện đại hơn. Các nhà khoa học nên được trao quyền tự chủ và bảo đảm lợi ích gắn liền với đóng góp của mình, đặc biệt trong hoạt động nghiên cứu, chuyển giao công nghệ và hợp tác với doanh nghiệp.
Nếu được đầu tư bài bản, có định hướng rõ ràng với cơ chế hỗ trợ phù hợp, sau 5-10 năm, các nhóm nghiên cứu hoàn toàn có thể tạo ra những đóng góp thiết thực cho phát triển khoa học và đời sống.
Để các viện nghiên cứu ngày càng hoạt động hiệu quả hơn trong các trường đại học, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Nano, Đại học Phenikaa đưa ra một số đề xuất, cụ thể:
Thứ nhất, cần thúc đẩy tăng cường hợp tác liên ngành và hợp tác quốc tế, hướng tới mục tiêu quốc gia và toàn cầu. Đây là lợi thế của trường đại học vì viện nghiên cứu sẽ là cầu nối giữa các nhà khoa học, khoa đào tạo chuyên môn trong và ngoài nước để giải quyết vấn đề mang tính liên ngành. Thông qua các dự án hợp tác, viện nghiên cứu góp phần phát huy tối đa năng lực chuyên môn, từ đó thúc đẩy đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu phát triển trong nước và hội nhập toàn cầu.
Thứ hai, cần đa dạng nguồn tài trợ nghiên cứu và đảm bảo chiến lược phát triển nghiên cứu bền vững. Ở Việt Nam, ngoài nguồn tài trợ nghiên cứu từ Quỹ Phát triển khoa học và Công nghệ quốc gia (Nafosted), từ các bộ, ngành liên quan hay tổ chức quốc tế, cần có cơ chế để khuyến khích hình thành “quỹ nghiên cứu và đổi mới sáng tạo” từ đơn vị hay tổ chức tư nhân, đặc biệt là doanh nghiệp có nhu cầu đổi mới công nghệ. Việc thiết lập cơ chế hợp tác giữa viện - nhà trường - doanh nghiệp không chỉ góp phần chia sẻ nguồn lực mà còn thúc đẩy ứng dụng kết quả nghiên cứu và đào tạo vào thực tiễn.
Thứ ba, cần nhanh chóng ban hành nghị định, thông tư hướng dẫn để tháo gỡ vướng mắc về cơ chế tài chính trong nghiên cứu khoa học. Trước hết, một số thủ tục như đấu thầu, mua sắm nguyên vật tư - hóa chất, thiết bị, công tác phí, hợp tác quốc tế… đều bị chi phối bởi nhiều quy định chồng chéo, gây khó khăn trong quá trình triển khai đề tài nghiên cứu.
Hiện nay, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 57-NQ/TW về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia. Nghị quyết này được kỳ vọng sẽ “cởi trói” hoàn toàn về cơ chế tài chính đã ràng buộc trước đây đối với những đề tài nghiên cứu. Do vậy, các thông tư, hướng dẫn cụ thể cần sớm ban hành để Nghị quyết đi vào thực tiễn.
Thứ tư, cần thay đổi cách tiếp cận trong quản lý hoạt động nghiên cứu như định hướng chiến lược nghiên cứu rõ ràng, thu hút và giữ chân những nhà khoa học giỏi, gắn nghiên cứu với đổi mới sáng tạo, đặc biệt cần có cơ chế chấp nhận rủi ro.
Chính sách quản lý cần thể hiện tinh thần chấp nhận rủi ro ở mức độ hợp lý, tạo điều kiện cho nhà khoa học sáng tạo và đột phá, thay vì chỉ đánh giá mức độ hoàn thành đề tài dựa trên sản phẩm cuối cùng theo thuyết minh ban đầu.
Tài liệu tham khảo:
[1] https://baochinhphu.vn/thu-tuong-chu-tri-phien-hop-bcd-cua-chinh-phu-ve-phat-trien-khoa-hoc-cong-nghe-doi-moi-sang-tao-chuyen-doi-so-va-de-an-06-102250721091025487.htm