Khi mô hình kinh tế thị trường trục trặc trong bối cảnh mới

Từ lâu, kinh tế thị trường được xem là cơ chế tự động hóa để xây dựng xã hội thịnh vượng khi tuân theo quy luật cung cầu quyết định giá cả và số lượng hàng hóa sản xuất trên thị trường. Dù còn nhiều bất cập và gây một số trục trặc cố hữu, kinh tế thị trường vẫn được nhiều quốc gia thúc đẩy dưới sự điều tiết của chính phủ như một cách cân bằng giữa hai yếu tố: hiệu quả và công bằng.

Tuy nhiên, trong bối cảnh mới - khi suy thoái kinh tế cùng lúc chịu các tác động từ cuộc cách mạng công nghệ và biến đổi khí hậu, mô hình kinh tế thị trường đang dẫn đến nhiều hệ lụy đáng lo ngại cho các nền kinh tế trên thế giới.

Con người bối rối giữa bài toán đánh đổi lợi ích ngắn hạn và dài hạn

John Maynard Keynes, nhà kinh tế học người Anh, đã có một phát biểu nổi tiếng về lợi ích ngắn hạn và dài hạn, đó là: “Trong dài hạn tất cả chúng ta đều chết”. Khi nói điều này, Keynes ủng hộ việc tập trung vào hành vi kích cầu tiêu dùng trong ngắn hạn để giúp thoát khỏi vấn đề suy thoái kinh tế hơn là cố gắng thắt chặt chi tiêu trong hiện tại để tích lũy nhằm hướng đến những mục tiêu dài hạn có thể sẽ chẳng bao giờ đến được khi tất cả cùng chết chìm trong ngắn hạn.

Lập luận của Keynes gây tranh cãi khi số lượng ủng hộ và phản biện đều nhiều không kém nhau. Có thể tư duy ủng hộ hành động ngắn hạn hay hướng đến dài hạn sẽ phù hợp trong những bối cảnh cụ thể khác nhau của nền kinh tế chứ không hẳn chỉ được áp dụng một trường phái bất di bất dịch qua các thời kỳ. Tuy nhiên, bối cảnh hiện nay dường như đang không cho phép đưa ra bất cứ sự lựa chọn nào trong cả hai.

Xu hướng e sợ những rủi ro suy thoái kinh tế có thể khiến thị trường thắt chặt chi tiêu gây giảm lượng cầu; trong khi đó ở phía cung, những khó khăn của hoạt động xuất khẩu do các chính sách bảo hộ mạnh mẽ từ các nước và sắp tới có thể là một cuộc chiến tranh thương mại diện rộng khiến các doanh nghiệp giảm quy mô sản xuất, thậm chí nhiều doanh nghiệp đối diện với việc phá sản. Trong trường hợp này, kích thích tiêu dùng trong nước có thể là cần thiết để tạo động cơ tăng trưởng kinh tế cho các doanh nghiệp, giúp thoát khỏi suy thoái kinh tế trong ngắn hạn.

Tuy nhiên, trong dài hạn, nếu hướng đến mục tiêu cắt giảm phát thải để đảm bảo vấn đề môi trường, thì chủ nghĩa tiêu dùng có vẻ không phù hợp. Áp dụng các tiêu chuẩn phát triển bền vững hay ESG cũng đồng nghĩa với việc chấp nhận một nền kinh tế phát triển chậm và có thể phải tạm thời thoái lui trong hiện tại để xây dựng lại các mô thức vận hành mới nhằm đảm bảo thân thiện với môi trường hơn. Giải quyết các vấn đề môi trường trước đây được nhìn nhận là mục tiêu rất dài hạn, nhưng ngày nay đã không còn là quá dài khi nhân loại đang phải đối diện với thiên tai và dịch bệnh, hệ lụy của biến đổi khí hậu.

Chi phí cơ hội có thể nhấn chìm nhiều đối tượng

Đứng trước áp lực chuyển đổi để đối diện với vấn đề cắt giảm phát thải và cuộc cạnh tranh khốc liệt trước sự phát triển của công nghệ và trí tuệ nhân tạo, những tổ chức có khả năng chuyển đổi mô thức vận hành cần phải có một trong hai hoặc cả hai lợi thế về nhân tài và tài chính. Thường có tài chính cũng có thể thu hút nhân tài và ngược lại, có được đội ngũ nhân tài cũng sẽ dễ dàng thu hút nhà đầu tư rót vốn vào các dự án chuyển đổi.

Tuy nhiên, tại các nước đang phát triển, khi quy mô của đa phần các doanh nghiệp là vừa và nhỏ, thậm chí là siêu nhỏ, cả hai lợi thế trên dường như hoàn toàn không có. Các doanh nghiệp cần quyết định dựa trên cân nhắc chi phí cơ hội mà họ phải chi trả cho đầu tư các nguồn lực vào việc chuyển đổi để có thể tồn tại và phát triển hay phải lựa chọn một chiến lược “hớt váng” - nỗ lực duy trì và kiếm lợi nhuận nhiều và lâu nhất có thể trước khi tuyên bố chấm dứt sứ mệnh.

Đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa, chiến lược “hớt váng” có lẽ sẽ phù hợp hơn là nỗ lực đầu tư nguồn lực vào việc chuyển đổi. Nếu tiếp tục vận hành theo kiểu cũ và cố gắng tìm kiếm nhiều tiền nhất có thể từ dư địa còn lại của thị trường, ít nhất cũng giúp các chủ doanh nghiệp giàu có hơn; còn nếu quyết định đổ nguồn lực vào việc chuyển đổi để tiếp tục tồn tại và phát triển, họ sẽ đối diện với rủi ro không đủ khả năng chịu đựng cho đến khi thật sự có thể thích ứng và vượt qua thách thức bằng một diện mạo mới. Nếu thất bại, họ không thể tích lũy được lợi nhuận đáng lẽ có thể kiếm được thêm thông qua chiến lược “hớt váng”.

Khả năng cao là các doanh nghiệp siêu nhỏ, nhỏ và vừa, sẽ lựa chọn kéo dài vòng đời của mình hết sức có thể để kiếm lợi nhuận cho đến khi việc chuyển đổi thực sự xảy ra khiến họ buộc phải chấm dứt hoạt động. Sự lựa chọn này dẫn đến một thực trạng được ví như trận đại hồng thủy cuốn phăng đi tất cả doanh nghiệp vừa và nhỏ cùng hàng triệu việc làm của người lao động tại các tổ chức này, cuối cùng, sau khi trận đại hồng thủy qua đi, những đối tượng có thể đứng vững trên thị trường sẽ chỉ là những tổ chức, cá nhân giàu có và tài giỏi.

Điều này nếu nhìn về quy luật cạnh tranh thì thể hiện được hiệu quả khi “người thổi sáo giỏi nhất đã có trong tay cây sáo tốt nhất”. Tuy nhiên, nếu nhìn ở chiến lược phát triển quốc gia và tính công bằng thì để bước qua trận đại hồng thủy, sẽ có rất nhiều nền kinh tế phải chấp nhận sụp đổ, rất nhiều đối tượng trong xã hội sẽ bị yếu thế khi mất việc, không có được nguồn thu nhập đủ để có cuộc sống tốt. Nhìn ở góc độ tác động của công nghệ, thực tế này thường được gọi bằng thuật ngữ “sự hủy diệt mang tính chất sáng tạo”.

Chính sách nào cho nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa?

Đối với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa vốn đề cao việc cân bằng giữa tính hiệu quả và công bằng, các chính sách thường không chấp nhận đánh đổi một trong hai yếu tố mà đi theo hướng dung hòa để đạt được cả hai. Ba đề xuất chính sách sau đây có thể được cân nhắc để áp dụng trong bối cảnh mới:

Kích cầu đúng chỗ và đúng lúc

Việc kích cầu vẫn là cần thiết để giúp gia tăng động lực tăng trưởng cho hoạt động sản xuất kinh doanh, giúp các doanh nghiệp trụ vững và phát triển để có thể tồn tại trong ngắn hạn. Tuy nhiên, mục tiêu tích lũy nội lực thúc đẩy chuyển đổi vẫn phải được chú trọng. Muốn thực hiện được điều đó, nhà nước cần thực hiện các chính sách kích cầu tiêu dùng đối với những sản phẩm dịch vụ hướng đến phát triển bền vững, áp dụng công nghệ phù hợp với xu hướng toàn cầu. Việc kích cầu ở mức độ nào và khi nào cần nương theo đặc điểm năng lực và nguồn lực sẵn có của khối các doanh nghiệp.

Đầu tư nguồn lực có trọng điểm

Để tập trung đủ nguồn lực nhằm có thể tiếp tục tồn tại sau trận đại hồng thủy, các nguồn lực đầu tư vào đổi mới sáng tạo nên được tập trung một cách có trọng điểm, tránh đầu tư tràn lan gây lãng phí lại khó có thể hoàn thành công cuộc chuyển đổi hiệu quả. Việc lựa chọn đầu tư nguồn lực vào ngành nào và hoạt động nào hay cho tổ chức nào nên được cân nhắc dựa trên đặc điểm năng lực thực hiện và tác động lan tỏa của ngành hoặc hoạt động đó, sao cho việc thực hiện chuyển đổi thành công sẽ đem lại lợi ích lớn nhất cho nền kinh tế tính theo giá trị thu được và số lượng người được hưởng lợi trong xã hội.

Thay đổi triết lý và phương pháp tạo ra nguồn nhân lực

Yếu tố nhân tài là rất quan trọng trong bối cảnh tác động của công nghệ và trí tuệ nhân tạo. Việc đào tạo ra và thu hút được nhân tài có tính chất quyết định đến khả năng dẫn dắt nền kinh tế vượt qua được trận đại hồng thủy công nghệ. Cách tiếp cận của hệ thống giáo dục đào tạo và thị trường lao động đối với nhân lực cần thúc đẩy tính hệ thống hóa vấn đề và khả năng cá biệt hóa sản phẩm để tạo tính cạnh tranh và duy nhất trên thị trường. Điều này quyết định khả năng tồn tại hoặc bị đào thải ra khỏi chuỗi giá trị toàn cầu.

Trần Hương Giang

Nguồn Saigon Times: https://thesaigontimes.vn/khi-mo-hinh-kinh-te-thi-truong-truc-trac-trong-boi-canh-moi/
Zalo