KHI LÀNG DẦN VẮNG BÓNG TRE
Từ ngàn xưa, trong văn hóa truyền thống Việt, hình ảnh cây tre và lũy tre đã mặc nhiên gắn chặt với văn minh làng xã, với đời sống vật chất, tinh thần nông thôn Việt Nam. Không hề ngẫu nhiên khi vũ khí đánh giặc và thắng giặc của Đức Thánh Gióng thời sơ khai dân tộc lại là những cây tre, cũng không hề ngẫu nhiên khi tre là chủng loài thực vật duy nhất được định danh cho một tỉnh - Bến Tre - trong 63 tỉnh, thành phố cả nước hiện nay và càng không hề ngẫu nhiên hơn nữa, khi đất nước ta đi vào giai đoạn hội nhập sâu rộng với thế giới thì hình ảnh cây tre mềm dẻo, linh hoạt mà cứng cõi, kiên cường được chọn như biểu tượng cho chính sách ngoại giao vươn mình tới tương lai.

Ảnh minh họa.
Ở khu vực đồng bằng sông Cửu Long, Trà Vinh và Sóc Trăng là hai tỉnh có nhiều con giồng đất cát. Từ xa xưa, giồng cát vốn khô ráo, dễ đi lại, nhất là trong những tháng mùa mưa, nước nổi nên thường được cư dân bản địa và các thế hệ khai hoang mở cõi chọn làm nơi cất nhà cư trú, hình thành các tuyến quần cư nối nhau thành xóm, thành làng. Cảnh quan phổ biến kéo dài hàng trăm năm tại địa bàn này là phum sóc, xóm làng quây quần trên giồng cát còn những cánh đồng đất thịt rộng mênh mông là nơi gieo cấy, đảm bảo cái ăn no đủ lâu dài cho cuộc sống sinh sôi phát triển.
Trà Vinh có những con giồng rất lớn, rộng và kéo dài hơn chục cây số, nối liền phum sóc này sang phum sóc khác, làng xóm này sang làng xóm khác và một số con giồng còn được gọi luôn với tên Giồng Lớn (Cầu Kè, Trà Cú, Cầu Ngang… đều có). Đất rộng người thưa, việc gieo trồng, thu hái chủ yếu ngoài đồng, còn trên giồng chỉ vài liếp rau lá, củ quả quanh nhà, góp chất xanh vào mỗi bữa ăn, phần lớn diện tích còn lại là giồng hoang cây tạp. Đất giồng có nhiều chủng loài thực vật tự nhiên đặc hữu nhưng phổ biến nhất vẫn là tre cùng một số “chi phái” của họ nhà tre như tầm vông, trúc, lồ ồ, lục bình… Tre sinh trưởng được trong mọi loại thổ nhưỡng lẫn thời tiết nhưng đặc biệt thích hợp với đất giồng cát nghèo dinh dưỡng, oi nước vào mùa mưa, khô hạn vào mùa nắng mà không cần bất cứ hình thức chăm sóc nào. Do đất nghèo dinh dưỡng, tre ít đâm cành tạo lá mà vươn thẳng thân lên cao, có khi đến 12 - 15 thước, khoảng cách giữa hai mắc tre thưa, lồng ống thẳng nên giá trị sử dụng cao hơn hẳn so với tre mọc vùng đất phù sa, đất biền, cù lao… Ít tốn công chăm sóc lại tạo thêm chút thu nhập nên hồi đó, trên đất giồng cát, nhà nào cũng có đôi ba bụi tre, gia đình khá giả hơn thì có cả hàng, cả lũy tre làm thành ranh đất giữa các gia đình, dòng họ với nhau. Hàng nối hàng, lũy nối lũy, bóng tre xanh muôn đời phủ lên cả phum sóc, cả xóm làng quê tôi, phủ xanh tâm hồn bao thế hệ sanh ra, lớn lên trên vùng đất ấy. Tuổi thơ thế hệ chúng tôi thường nhà đứa nào cũng nghèo khó, đâu có gì để tự hào, để khoe, ngoài… “hàng tre nhà tao dài hơn, cây tre nhà tao cao hơn, vàng hơn tre nhà mầy, nghĩa là năm nay nhà tao khá tiền hơn nhà mầy đôi chút!”.
Đầu mùa mưa, từ dưới gốc tre, những mụt măng vạch đất nhú lên, rồi nương theo thân mẹ mà vươn thẳng lên cao. Nước mưa làm mềm đất, làm mục lớp lớp lá tre rụng đầy từ năm trước, tạo nguồn dinh dưỡng vừa đủ để họ nhà tre bước vào chu kỳ tăng trưởng mới. Từ những mắc tre, những nhánh non đầy gai tua tủa mọc ra, đan vào nhau thành nhiều lớp “mạng nhện” như vô số cánh tay đùm bọc thế hệ măng non khỏi sự xâm hại của các loại thú rừng, lại vừa giang tay cố kết cả bụi thành một khối vững chắc, cùng nhau vượt qua những trận mưa giông, những cơn gió dữ. Cuối mùa mưa, những măng non ngày nào đã dày dặn hơn, gió giông cũng đã lui dần thì “mạng nhện” đầy gai ấy cũng khô đi. Sau mùa gặt hái, lúa đã vô bồ, tết nhứt cũng xong, nhìn lên giữa bụi đã có những thân tre vươn thẳng vàng au, loe hoe đôi ba chiếc lá… nghĩa là tre đã tới lứa, chờ thu hoạch. Chiều chiều, ông chủ nhà miệng phì phèo điếu thuốc, tay chắp sau đít, thả bộ dọc theo hàng tre, mắt nhìn, miệng nhẫm xem đợt thu hoạch này đốn được bao nhiêu, rồi nhơn với thời giá mà tính ra số bạc có đủ để phòng hờ cho bao việc linh tinh cần xoay trở cả một năm dài.
Mùa đốn tre, thường ngay sau tết Nguyên đán, cũng là mùa làm nhà, mùa nông nhàn, từ những cây tre đất giồng cát và bàn tay cần mẫn khéo léo của người nông dân đã làm ra biết bao vật dụng cần thiết cho cuộc sống, từ thôn quê cho tới thành thị. Hồi đó, xã hội ít đổi thay, năm trước sao thì năm sau vậy, nên kinh nghiệm đóng vai trò quyết định trong mọi giao dịch, mua bán. Cả xóm, cả làng, cả những mối lái năm nào cũng đổ về đều thuộc nằm lòng tre nhà nào thân dài, giao lóng mà dày cơm, tre nhà nào “đứng đám” 15 - 20 mùa mưa, thịt tre thâm kim, cứng sãng thì mối lái chờ sẵn, giá cả cao hơn. Thường đây là những gia đình khá giả, tre già tới mức mới chịu bán, thậm chí đứng trước bụi tre, ông chủ nhà chỉ từng cây, có khi ở giữa bụi cũng phải ráng dọn dẹp từ ngoài vào để đốn cho bằng được, không chịu thì thôi, cứ để đó.
Hồi đó, từ đầu thập niên 1990 trở về trước, ở nông thôn đồng bằng sông Cửu Long hơn 80 phần trăm vẫn là nhà tre lá. Tìm cho được cây đòn dông và bộ đòn tay tre 16 cây già, thẳng, dày cơm và thon đều như nhau… cho ngôi nhà ba gian (mỗi gian hai thước rưỡi nên phủ bì phải tám thước đổ lên) là không phải dễ. Kế đó là các vì kèo, cột cái, cột con, trụ vách, suông ruông, rui, nẹp cho tới con sẻ, con nêm… tất thảy đều từ những bụi tre quanh làng. Người làng tôi, thế hệ này sang thế hệ khác, sanh ra trên chiếc giường tre, chiếc nôi tre, lớn lên trong ngôi nhà tre, dưới bóng mát bụi tre hiên nhà, khi nhắm mắt xuôi tay cũng ra nằm chòm mả bìa làng dưới bóng rặng tre xanh mát. Khách tới nhà, mời vào nhà trên uống trà trên chiếc trường kỹ tre lên nước đen bóng, cần thì kéo chiếc phên tre xuống một chút che bớt ánh nằng chiều. Khách ở lại, bước ra sau lấy chiếc rổ tre ra ao kéo rộng tre bắt vài con cá, bắc lên bếp củi tre lửa dậy… là có bữa cơm tươm tất cùng đôi đũa tre hong bếp khác nào gỗ mun cho khách đường xa.
Cây tre theo cha tôi ra đồng với giỏ tre giở cơm theo, trên vai là chiếc đòn gánh, cặp ky tre, cặp ách trâu bằng tre, chiếc gàu vai tre tát nước, cây tầm tre đo công cấy công gặt, chiếc đòn xóc tre gánh mạ đi gánh lúa về… Thế hệ cha anh chúng tôi đánh giặc bằng ngọn tầm vông vạt nhọn, bằng chiếc chông tre nhọn hoắc, đơn giản vậy mà cản đường từng tốp bộ binh dưới đất, rồi không biết học hỏi từ đâu mà biết dựng những thân tre phớt chéo đầu, cắm tua tủa trên những bãi đất trống, khiến những người lính nhảy dù cứ vướng dây, vướng dù chới với, chân không chạm đất…
Cây tre theo mẹ tôi ra chợ với chiếc giỏ tre khi bán cá lúc mua rau. Về nhà, bà cùng các con xúc từng thúng tre, mỗi thúng đúng nửa giạ lúa từ chiếc bồ bằng mê tre, đổ vào chiếc cối tre bên cạnh chiếc nia tre, sàng tre, vừng tre… mà xay giã, sảy sàng để cả nhà có được hột gạo trắng tinh tươm. Tre lại hóa thân thành cái nơm, cái rổ xúc, cái đăng, cái đó, cái lờ, cái lợp… theo bà xuống sông, xuống rạch lúc con nước sát; thành chiếc xà ngôm, xà neng, cái ống trúm… lên đồng kiếm thêm con tôm, con cá cho bữa ăn hàng ngày không nhạt miệng.
Tuổi thơ thế hệ chúng tôi, đứa nào mà không qua những trò chơi đánh chuyền chuyền bằng những chiếc đũa tre, đánh trỗng tầm tre, lớn lên với những chiếc cần câu rô, câu rê, câu nhấp, câu cắm… dong ruổi từ cánh đồng này sang cánh đồng khác. Những buổi chướng về, gởi gấm bao ước mơ theo cánh diều, cánh thuẫn có lưỡi giăng tre giữa bầu trời cao vút. Và, có ai trong thế hệ chúng tôi không thuộc lòng bài hát “Chín dòng sông hò hẹn” của Nhạc sĩ Trúc Phương đong đầy hình ảnh một làng quê thanh bình Việt Nam: “Sáo diều lưng lưng gió/ giấc ngủ bờ tre trưa”…
Lũy tre gắn chặt với làng quê Việt Nam của thời đất rộng người thưa, nhà trên giồng, lúa mùa một vụ dưới đồng. Xã hội ngày một phát triển, đất hẹp người đông, đất trồng cây lâu năm, trong đó có cây tre, chuyển dần sang đất thổ cư, nhất là những làng xóm vùng ven đô thị, nhà nhà kề nhau thì tre còn chỗ nào mà đứng. Nền kinh tế chuyển từ nông nghiệp lúa nước sang công nghiệp hiện đại, nhất là ngành công nghiệp vật liệu đã cung cấp mọi vật dụng vô cùng đa dạng và tiện dụng bằn g nhựa, bằng nhôm… vào từng nhà, phù hợp với đời sống từng gia đình, từng người, từng lứa tuổi khác nhau, với giá rẻ đến không ngờ. Bây giờ, gần như toàn bộ nhà cửa nông thôn đều là nhà tường, nhìn từ dưới nền lên nóc nhà không thấy bóng dáng vật liệu bằng tre và trong gia đình nào mà còn giữ được chiếc rổ tre hay cây đòn gánh, đòn xóc tre… chắc cũng là người hoài cổ lắm rồi.
Làng Việt dần vắng bóng tre là lẽ tất nhiên. Biết là tất nhiên nhưng vẫn thấy trong lòng nhiều cảm xúc!