Hyundai - 'Viên ngọc ẩn' làm nên thương hiệu toàn cầu
Trước khi trở thành cái tên quen thuộc, những chiếc xe này đã định hình nên lịch sử của Hyundai...
Cơn bùng nổ dầu hỏa năm 1973 là một trong những bệ phóng đưa Hyundai vào danh sách những tập đoàn khổng lồ thế giới.
Tập đoàn ô tô Hyundai hay còn có tên trên trường quốc tế là Hyundai Motor Company được thành lập vào ngày 29/12/1967 bởi ông Chung Ju-Yung. Hyundai Motor hiện đang là nhà sản xuất ô tô, tàu biển, máy móc, phương tiện, thiết bị công nghiệp, quân sự - quốc phòng chuyên dụng đa quốc gia có quy mô lớn nhất tại quê nhà Hàn Quốc nói riêng và đồng thời cũng là hãng xe có giá trị thương hiệu lớn thứ 3 châu Á, hạng 5 toàn cầu năm 2020.
Trước thập niên 1970, Hàn Quốc chưa có con tàu nào lớn hơn 10.000 tấn nhưng lời quảng cáo về Hyundai của Tổng thống Park Chung Hee đã giúp đem lại hợp đồng đầu tiên về 2 tàu dầu 240.000 tấn đặt từ Hy Lạp. Tiếp đó là đơn đặt hàng từ Hồng Kông (Trung Quốc) và Nhật. Năm 1975, Chính phủ Hàn Quốc ra lệnh tất cả dầu nhập từ Trung Ðông phải được chở bằng tàu dầu Hàn Quốc.
Nhờ vậy, cuối thập niên 1980, Hyundai đã trở thành nhà đóng tàu lớn nhất thế giới. Ðến thập niên 1980, Hyundai là doanh nghiệp gia đình lớn nhất Hàn Quốc. Từ Hyundai Engineering (xây dựng), Hyundai Motors (xe hơi), Hyundai Merchant Marine (đóng tàu), Chung Ju-Yung thành lập thêm Hyundai Electronics - nơi không đầy 10 năm sau trở thành nhà sản xuất chip vi tính thứ nhì thế giới.
Trước khi chuyển ghế chủ tịch tập đoàn cho các con vào năm 1987, Chung Ju-Yung đã xây dựng thành công một công ty đóng tàu lớn nhất và một công ty xe hơi hàng đầu Hàn Quốc. Và năm 1976, Hyundai tung ra mẫu xe hơi đầu tiên với tên gọi: Pony.
SỰ KHỞI ĐẦU CỦA “DI SẢN”
Chung Ju-Yung (1915 - 2001) thành lập Công ty Xây dựng và Kỹ thuật Hyundai vào năm 1947. Công ty Hyundai Motor Company được thành lập vào năm 1967 và mẫu xe đầu tiên của công ty: Cortina được phát hành vào năm 1968 thông qua sự hợp tác với Ford Motor Company.
Khi Hyundai muốn phát triển xe ô tô riêng của mình, họ đã thuê George Turnbull vào tháng 2/1974, người từng là giám đốc điều hành của Austin Morris tại British Leyland. Năm 1975, mẫu xe Pony (chiếc xe hơi Hàn Quốc đầu tiên) được ra mắt với thiết kế do Giorgio Giugiaro của ItalDesign và công nghệ động cơ được cung cấp bởi Mitsubishi Motors của Nhật Bản.
Việc xuất khẩu bắt đầu vào năm sau đến Ecuador và sau đó đến các quốc gia Benelux. Hyundai gia nhập thị trường Anh vào năm 1982, bán được 2.993 chiếc trong năm đầu tiên tại đó.
Năm 1984, Hyundai bắt đầu xuất khẩu Pony đến Canada, nhưng không xuất khẩu đến Mỹ vì mẫu xe không đáp ứng được các tiêu chuẩn khí thải tại đó. Doanh số bán ra tại Canada vượt xa dự kiến và lúc đó Pony là mẫu xe bán chạy nhất trên thị trường Canada. Năm 1985, Hyundai đã đạt được con số 1 triệu xe đầu tiên.
Pony ban đầu được ra mắt với tư cách là một chiếc coupe 2 cửa trước khi trở thành một chiếc saloon liftback 4 cửa và thậm chí là một chiếc xe bán tải. Thế hệ thứ hai đã loại bỏ kiểu thân xe coupe và gắn bó với chiếc saloon liftback bốn cửa và xe bán tải.
Động cơ 4 xi-lanh 1.238cm3 tuyên bố công suất 55 PS (40kW) và động cơ 1.439cm3 sản sinh công suất 50kW. Mẫu xe đạt tốc độ tối đa là hơn 148km/h với khả năng tăng tốc từ 0 - 100km/h trong 15,3 giây.
Bất kể thế hệ hay kiểu thân xe, Pony vuông vắn như những chiếc xe của thập niên 70. Từ viền đèn pha, đến đèn hậu, đến đường viền thân xe, mọi thứ đều được vẽ bằng thước kẻ 90 độ. Mẫu xe không thực sự nổi bật nhưng nó đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ là sự khởi đầu của một “di sản”.
MẪU SEDAN ĐẦU TIÊN
Chiếc sedan Hyundai Stellar ra đời vào tháng 7/1983 cho đến năm 1992. Mẫu xe kế thừa Ford Cortina mà Hyundai đã chế tạo theo giấy phép. Stellar được thiết kế bởi Giorgetto Giugiaro sử dụng khung gầm dẫn động cầu sau từ Cortina Mark V.
Động cơ và hộp số được cấp phép bởi Mitsubishi Motors. Các động cơ có sẵn là 1,4L (4G33, giống như Hyundai Pony) và 1,6L (4G32) 4 xi-lanh thẳng hàng cho đến năm 1986, sử dụng hộp số sàn KM119, 4 hoặc 5 cấp hoặc hộp số tự động 3 cấp Borg-Warner 03-55L) và động cơ 2,0 L vào năm 1987.
Các cấp độ trang trí bao gồm L (cơ sở), GL/CL/SL và CXL/GSL. CXL/GSL có cửa sổ, khóa và gương chỉnh điện, cửa đổ nhiên liệu từ xa, cốp xe từ xa, hệ thống âm thanh cao cấp, cụm đồng hồ đo đầy đủ (tốc độ, vòng tua máy, nhiên liệu, nhiệt độ nước, vôn và áp suất dầu), hệ thống rửa đèn pha và có sẵn hệ thống điều hòa không khí.
Gen Ford và thiết kế thông thường của Stellar đã khiến nhiều nhà quan sát người Anh so sánh nó với Cortina mới ngừng sản xuất - nơi những người mua bảo thủ đã sợ hãi trước kiểu dáng cấp tiến của Sierra. Một thực tế được công ty quảng cáo của Hyundai khai thác bằng các quảng cáo in mô tả một khuôn thạch có hình dạng giống Sierra phía trên hình ảnh của Stellar.
Giống như Cortina, Stellar cũng có hệ thống treo xương đòn ở phía trước với trục sau sống lò xo cuộn. Cũng như có thể so sánh với Cortina, vốn là chiếc xe bán chạy nhất của Anh, nó cũng được người mua ưa chuộng do giá chào bán cạnh tranh, điều đó có nghĩa là nó có giá tương đương với một chiếc Escort nhỏ hơn thay vì một chiếc Sierra.
Mẫu xe đã được bán tại Anh từ tháng 6/1984 cho đến khi Lantra xuất hiện vào năm 1991. Đây là mẫu xe Hyundai thứ 2 được nhập khẩu vào châu Âu, 2 năm sau khi ra mắt chiếc Pony nhỏ hơn.
MẪU XE XUẤT KHẨU ĐẦU TIÊN CỦA HYUNDAI
Hyundai Excel còn được gọi là Hyundai Pony, Hyundai Pony Excel, Hyundai Presto, Mitsubishi Precis, Hyundai X2 và Hyundai XL, là mẫu xe được sản xuất từ năm 1985 - 1999 qua 3 thế hệ. Đây là mẫu xe dẫn động cầu trước đầu tiên do Hyundai sản xuất nhằm thay thế cho Hyundai Pony dẫn động cầu sau.
Excel dựa trên thế hệ thứ 2 của Mitsubishi Mirage nhưng nó đã nhận được thiết kế kim loại tấm riêng của Giorgetto Giugiaro. Excel có sẵn ở dạng xe hatchback 3 hoặc 5 cửa và xe sedan 4 cửa đồng thời đây cũng là mẫu xe Hyundai đầu tiên được xuất khẩu sang Mỹ.
Excel có sẵn hộp số sàn hoặc số tự động kết hợp với động cơ 4 xi-lanh hút khí bằng bộ chế hòa khí hoặc hệ thống phun nhiên liệu, tùy thuộc vào thị trường và năm sản xuất. Ban đầu, Excel được cho là sẽ được thay thế bằng Elantra vào năm 1990, nhưng cuối cùng nó lại được bán thêm 4 năm nữa cho đến khi bị thay thế bằng Hyundai Accent vào năm 1995. Từ năm 1990, có một biến thể coupé có tên là Hyundai Scoupe được thay thế bằng Hyundai Coupé vào năm 1996.
Tại Mỹ, đây là mẫu xe đầu tiên và duy nhất của công ty (Pony trước đó không được bán tại quốc gia này vì không đáp ứng các tiêu chuẩn khí thải của liên bang), nhưng nhờ mức giá 4.995USD (thời điểm đó) đã được tạp chí Fortune bình chọn là “Sản phẩm tốt nhất số 10”, nó đã lập kỷ lục về xe nhập khẩu trong năm đầu tiên khi bán được 168.882 chiếc, giúp đưa tổng sản lượng tích lũy của công ty vượt qua 1 triệu chiếc vào năm 1986.
Các động cơ có sẵn là động cơ 4 xi-lanh thẳng hàng 1,3 lít (1.298cc) và 1,5 lít (1.468cc), sản sinh công suất lần lượt là 66 mã lực (49 kW) và 71 mã lực (53 kW). Tại thị trường trong nước, những chiếc hatchback được tiếp thị là "Pony Excel" và chiếc sedan được gọi là Hyundai Presto.
Chiếc Pony 1985 chỉ được bán dưới dạng hatchback 5 cửa ở châu Âu. Không giống như chiếc Pony Sedan đầu tiên, chiếc Pony/Excel X1 Sedan có cốp xe tách biệt với khoang hành khách.
NHƯ “MỘT CHIẾC KEM”
Hyundai Scoupe còn được gọi là Hyundai S-Coupe, là một mẫu xe coupe 2 cửa được sản xuất từ năm 1990 - 1995 và dựa trên chiếc Hyundai Excel cùng thời. Tên gọi, một từ ghép của "sporty" và "coupe", được phát âm là "scoop".
Tại Triển lãm ô tô Tokyo năm 1989 , Hyundai đã trưng bày một nguyên mẫu được đặt tên là khái niệm "Xe thể thao" (SLC). Việc sản xuất thường xuyên bắt đầu vào tháng 2/1990; Scoupe có chi phí phát triển là 521 tỷ Won (hơn 9 nghìn tỷ đồng bây giờ). Hệ thống truyền động và khung gầm phần lớn giống hệt với Excel/Pony đương thời mặc dù có hệ thống truyền động ngắn hơn một chút để cải thiện khả năng tăng tốc và mang lại cho mẫu xe hình ảnh thể thao.
Dòng động cơ Alpha hút khí tự nhiên do công ty phát triển đã thay thế thiết kế ban đầu của Mitsubishi vào tháng 4/1991, sau đó là Alpha tăng áp vào tháng 10 cùng năm. Các mẫu xe Base và LS được trang bị động cơ phun nhiên liệu trực tiếp 1,5 lít, 12 van mới.
Mẫu xe được thay thế bằng Tiburon vào năm 1996. Khi ngừng sản xuất vào năm 1995, Scoupe là một trong những mẫu xe cuối cùng được bán tại Mỹ với dây an toàn cơ giới thay vì túi khí.
Tổng cộng có 242.441 chiếc Scoupe đã được sản xuất: 63.998 chiếc được bán trong nước tại Hàn Quốc và 178.443 chiếc được sản xuất để xuất khẩu.
SEDAN HẠNG SANG CHO KHÁCH VIP HÀN QUỐC
Hyundai Grandeur là mẫu xe sedan cỡ lớn được sản xuất từ năm 1986 và trải qua 7 thế hệ.
Từ năm 1986 - 1996, Grandeur là mẫu xe chủ lực của dòng xe Hyundai tại Hàn Quốc trước khi Hyundai Dynasty được giới thiệu. Nó được tiếp thị trên toàn cầu với tên gọi Hyundai Azera.
Với tên gọi Azera, nó là mẫu xe chủ lực của dòng xe Hyundai tại Mỹ và Canada cho đến khi mẫu xe Genesis sedan ra đời. Sau khi thương hiệu Genesis riêng biệt ra mắt, Grandeur/Azera đã tiếp tục giữ vị trí là mẫu xe chủ lực của công ty.
Grandeur đầu tiên là một chiếc Mitsubishi Debonair được đổi tên do Hyundai sản xuất. Ban đầu, được ra mắt với phiên bản động cơ SOHC MPI 2.0L do Mitsubishi cung cấp được sử dụng trong Sonata thế hệ đầu tiên, động cơ SOHC MPI 2.4L được bổ sung vào năm 1987. Một mẫu xe có động cơ V6 3.0L được ra mắt vào năm 1991 để cạnh tranh tốt hơn với Daewoo Imperial.
Vào đầu những năm 80, Mitsubishi Motors cũng muốn đổi mới mẫu xe Debonair cũ kỹ của mình, ra mắt thị trường vào năm 1964. Với mối quan hệ, Mitsubishi đã chấp nhận yêu cầu của Hyundai về việc chia sẻ nền tảng, cấu hình bên trong và quan trọng nhất là động cơ.
Vì Hyundai là nhà tài trợ chính thức của Thế vận hội Olympic Seoul 1988 nên hãng đã tận dụng cơ hội này để thông báo cho tất cả các giám đốc điều hành và những người quan trọng về chiếc xe mới của mình: Grandeur.
Nhờ nền tảng Mitsubishi và chất lượng tốt, mẫu xe đã trở nên rất phổ biến ở Hàn Quốc.
MẪU XE OFF-ROAD
Hyundai Galloper còn được gọi là Galloper Exceed , Galloper Innovation, Mitsubishi Galloper, Asia Galloper hoặc Hawtai Jitian, là mẫu SUV cỡ lớn được nhà sản xuất từ năm 1991 - 2004.
Chung Mong-koo (con của Chung Ju-young) là người đi đầu trong việc bản địa hóa Galloper của Tập đoàn Hyundai. Ban đầu, Galloper được lắp ráp tại nhà máy của Hyundai Precision Industry, Co. Ltd. ở khu phố Buk-gu, Yeompo-dong của thành phố Ulsan.
Một sự kiện ra mắt được tổ chức cho Galloper tại Khách sạn Seoul Hyatt vào ngày 25/9/1991. Trong vòng 1 năm, đây là mẫu SUV bán chạy nhất tại Hàn Quốc (vượt qua Ssangyong Korando) khi có đến 24.000 chiếc đến tay người tiêu dùng ở “xứ sở kim chi”.
Năm 1994, Hyundai bắt đầu xuất khẩu Galloper sang các nước khác ở châu Á, bắt đầu từ Trung Quốc. Bắt đầu từ năm 1997, Galloper được giới thiệu đến hầu hết các thị trường châu Âu như một loại xe chỉ có tay lái bên trái, sau khi đã sản xuất được khoảng 220.000 chiếc. Công suất sản xuất là 60.000 xe mỗi năm.
Đến năm 1999, Hyundai đã sản xuất hơn 300.000 chiếc Galloper. Vào ngày 31/7/1999, nhà máy và dây chuyền sản xuất đã được chuyển từ Hyundai Precision sang Hyundai Motor Company, công ty đã đổi tên nhà máy thành Nhà máy Hyundai Motors Ulsan số 5. Hyundai Precision đã tập trung lại thành nhà cung cấp phụ tùng ô tô. Galloper đã ngừng sản xuất vào tháng 1/2004 sau 13 năm… “tung hoành”.