Huyền thoại và hiện thực núi sông xứ chè
Tôi có lần nghe thấy người ta bảo, Tân Cương, Thái Nguyên, được coi là đệ nhất danh trà là bởi vì nước mắt nàng Công thấm sâu vào đất để nuôi dưỡng cây chè. Bởi thế uống trà Tân Cương ban đầu thấy đắng ở lưỡi nhưng càng uống càng thấy ngọt hậu. Vị ngọt cứ lưu luyến, ngân nga, tỏa ra nơi cuống họng để người ta mỗi lần nhấp một chén trà là một lần nhớ mãi. Cứ thế, đi theo câu hát về huyền thoại chàng Cốc, nàng Công, tôi tìm về nơi cội nguồn hồ núi Cốc để ngẫm, xem chuyện tình đầy bi thương với những huyền thoại và hiện thực đan xen khiến bao người mê đắm, xót thương, rơi lệ.

Tác giả (áo hồng) và các học trò trong chuyến đi về hồ núi Cốc
Mối tình thương đau hóa sông hóa núi, dằng dặc một khúc ca giữa bao la mây trời
“Bồng bềnh (ư hư) bồng bềnh, tròng trành (ư hư) tròng trành / Một vùng núi cao nước sâu thuyền trôi, thuyền trôi / Mái chèo bâng khuâng dưới chân Tam Đảo...”, theo câu hát, trong cái cảm giác lâng lâng tựa như nhịp chèo đang khoang thai trên mặt hồ lộng gió giữa tiết trời trong trẻo, sáng sủa tháng ba, chúng tôi đi về miền núi sông huyền thoại của xứ chè Thái Nguyên. Trong men say câu hát của nhạc sĩ họ Phó tôi chợt nhớ đến một huyền thoại đã từng lấy đi không ít nước mắt của biết bao người.
Chuyện kể rằng, ngày xửa ngày xưa, ở dưới chân núi Tam Đảo (nằm trên địa bàn thành phố Hà Nội và ba tỉnh Vĩnh Phúc, Thái Nguyên, Tuyên Quang), có một chàng trai mồ côi nghèo khổ, sống trong túp lều rơm bằng nghề kiếm củi.
Hằng ngày, sớm tinh mơ chàng đi vào rừng cho đến khi chiều buông nhọ mặt mới lầm lũi trở về. Bởi thế dân làng gọi chàng là Cốc, tên một loài chim chuyên một mình mò mẫm kiếm ăn. Vì quá nghèo nên chẳng có ai muốn kết bạn với chàng. Chàng làm bạn với cây sáo tự làm. Mỗi khi rảnh rỗi, chàng lấy sáo ra thổi. Tiếng sáo vút lên cao khiến chim rừng say sưa, ngơ ngác; làm gió đang lang thang cũng phải dừng lại bồn chồn. Tiếng sáo da diết khiến đất trời cũng không khỏi động lòng thương cảm. Đến tuổi lấy vợ nhưng chàng vẫn cô đơn. Vì quá nghèo nên chàng cũng chẳng dám nghĩ đến chuyện lấy vợ.
Thủa ấy, ở vùng sông Gâm có một nhà quan lang giàu có. Ruộng của quan lang chim bay rã cánh, nai chạy cuồng chân. Kho thóc của quan lang mọc san sát như núi. Đàn trâu nhà quan lang không đếm xuể. Người đến làm thuê cho quan lang đông nườm nượp, toàn những trai tráng khắp vùng. Quan lang có một cô con gái xinh đẹp, hát háy, múa dẻo bởi thế người ta quen gọi nàng là Công, tên một loài chim có sắc đẹp múa hay. Khi nàng đến tuổi cập kê, quan lang ra điều kiện kén rể: phải làm công ba năm, mãn hạn nếu nàng Công ưng ý thì mới cho cưới. Thanh niên trong vùng ai cũng hy vọng được làm rể quan lang nên kéo đến làm rất đông. Hết ba năm này lại đến ba năm khác, nàng Công vẫn chưa chọn được ai. Nhà quan lang cứ thế giàu mãi lên.
Một ngày kia, tin quan lang kén rể đến vùng chân núi Tam Đảo. Trai làng lũ lượt khăn gói lên đường. Chỉ riêng có chàng Cốc là vẫn lủi thủi vào rừng hái củi kiếm sống. Nhưng rồi, năm ấy, trời làm hạn hán mất mùa, chẳng có người đổi gạo lấy củi. Chàng Cốc đành tìm đường đến nhà quan lang xin làm thuê để sống độ thân. Thấy chàng có vẻ hiền lành, thật thà, quan lang giao cho chàng việc trông coi đàn trâu trong rừng. Chàng thui thủi giữa rừng sâu.
Đêm đến chàng gửi tâm tình vào cây sáo. Tiếng sáo réo rắt bay đến nơi nàng Công ở. Nghe tiếng sáo, nàng Công nhận ra những nỗi cô đơn, buồn khổ và khao khát của chàng Cốc. Nàng vùng dậy trong đêm, lần theo tiếng sáo đến với chàng Cốc. Hai người vừa gặp nhau thì tiếng gà rừng cũng bắt đầu eo óc gáy. Nàng lại vội vã quay về. Từ đó, đêm đêm, nghe tiếng sáo gọi, nàng công lại vào rừng tình tự cùng chàng Cốc.
Một ngày kia, người nhà quan lang mang gạo, muối vào rừng, chợt nhìn thấy những sợi tóc mượt dài vương trên sàn chòi canh trâu. Người này biết chuyện bèn kể lại cho quan lang. Quan lang vô cùng tức giận và lo lắng. Quan lang tức vì bao nhiêu người kia nàng Công không chọn ai mà lại đi yêu chàng Cốc. Quan lang lo lắng vì sợ mất con gái, tức là mất mấy trăm trai tráng đang làm mướn không công. Quan lang bèn lập mưu giết chết chàng Cốc.
Hắn cho người vào rừng bảo chàng Cốc muốn làm rể nhà quan lang thì phải đến Lũng Phia lấy ngà voi, sừng tê giác, gạc nai về làm lễ vật. Quan lang nghĩ rằng Lũng Phia là khu rừng rậm rạp, giữa ba bề vách đá, có nhiều thú dữ ăn thịt người, chắc chắn chàng Cốc đến đó sẽ không có đường về. Về phần chàng Cốc, thấy vậy quan lang bảo vậy nên vừa mừng, vừa lo mà lên đường.
Tới Lũng Phia, chàng Cốc lại đem sáo ra thổi. Tiếng sáo vút lên làm động lòng các loài muông thú. Chúng tụ tập xung quanh chàng Cốc và bảo nhau giúp chàng: voi hiến đôi ngà óng chuốt, tê giác, hươu nai dâng cho cặp sừng đẹp đến mê mẩn. Quan lang cho người dò la, thấy thế nên rất tức giận. Quan lang ra lệnh đốt khu rừng. Lửa cháy rừng rực, bủa vây kín bốn phía. Nhưng lạ thay, lúc ấy trời bỗng nổi trận mưa rào và dập tắt đám lửa.
Chưa hết bàng hoàng thì chàng Cốc thấy hiện ra trước mắt một ông lão râu tóc bạc trắng như mây. Chàng vội lạy tạ ông lão công ơn cứu mạng. Tiên ông đã bảo cho chàng biết lòng dạ hiểm độc của quan lang và khuyên chàng rời bỏ, trở về quê hương. Bảo xong, ông lão cho chàng một chiếc lược làm vật hộ mệnh và dặn: Nếu con gặp nguy hiểm thì cứ bẻ răng lược vứt lại phía sau.
Chàng Cốc trở về chòi canh trâu và nhờ tiếng sáo nhắn gửi đến nàng Công lời hò hẹn.
Khi ấy nàng Công cũng biết dã tâm của cha, nghe được tiếng sáo thân quen, nàng vội lên con ngựa hồng của cha và phi vào trong rừng.
Sáng ra, quan lang không thấy con gái, lại thấy mất ngựa. Rất nhanh, quan lang hiểu ra câu chuyện nên vội vàng cho người đuổi bắt. Thấy vậy, nàng Công và chàng Cốc vội lên ngựa hồng chạy trốn. Trên đường chạy, mỗi lần nghe tiếng vó ngựa, tiếng chó sủa và tiếng hò hét sau lưng, chàng Cốc lại bẻ một răng lược ném lại phía sau. Chiếc răng lược liền biến thành một dãy núi để ngăn chặn đoàn quân đuổi bắt của nhà quan lang. Quan lang quyết đuổi đến cùng nên hai người phải chạy miết.
Cứ mỗi khi đoàn quân nhà quan gần đến nơi thì chàng Cốc lại bẻ một răng lược vứt xuống. Hai người chạy cho đến khi vứt hết răng lược và đoàn quân nhà quan lang lại đang ở gần, nàng Công than khóc cùng chàng Cốc và một mực bảo chàng hãy một mình phi ngựa chốn về quê, chờ ngày gặp lại. Hai người đớn đau chia tay. Chàng Cốc lên ngựa và ném lại chiếc sống lược còn lại xuống đất. Khi ngựa vút đi, sống lược chạm đất, mặt đất bỗng nứt ra, tạo thành một vết nứt dài và sâu. Vừa lúc đó, quân nhà quan lang đến nơi và bắt nàng Công về nhốt vào hang đá.
Từ đó, hai người thương nhớ và chờ đợi nhau nhưng chẳng có cách nào tìm gặp lại. Chàng Cốc lại thổi sáo. Tiếng sáo chàng Cốc không tới được chỗ nàng Công. Thời gian đằng đẵng qua đi mà không thấy nàng Công tới, nhớ thương, tuyệt vọng, chàng Cốc héo hon mà chết. Sau khi chết, trời thương cảm đã hóa chàng thành một quả núi sừng sững giữa trời, người ta gọi là núi Cốc.
Còn nàng Công ở trang hang đá cũng nhớ thương chàng Cốc đến quằn quại, khô gầy. Nàng khóc suốt đêm ngày cho đến chết. Nước mắt của nàng thấm sâu vào trong đất, chảy thành dòng theo vết nứt của chiếc sống lược để tìm về núi Cốc, dòng nước mắt này chảy thành sông, người ta gọi là sông Công. Và cũng kể từ đây, vùng đất Thái nguyên có thêm núi Cốc và dòng sông Công.

Mênh mông sóng nước hồ núi Cốc
“Một vùng núi cao, nước sâu thuyền trôi, mái chèo bâng khuâng dưới chân Tam Đảo”
Qua thành phố Thái Nguyên không xa, khoảng chừng gần hai chục cây số, theo con đường ngoằn ngoèo đi xuyên qua những dải núi, đồi bao la; bất ngờ hiện ra trước mắt chúng tôi một vùng trời nước mênh mông. Đấy chính là hồ núi Cốc. Mặt hồ xanh ngăn ngắt, xôn xao hàng ngàn con sóng lăn tăn nối đuôi nhau giữa muôn ngàn tia nắng mới, dịu nhẹ vàng tươi như rót mật, lấp lánh trên mặt nước khiến ai nấy không khỏi thích thú đến nao lòng mà quên đi biết bao mệt nhọc.
Bên phía Tây của hồ nước bát ngát là dãy núi Tam Đảo sừng sững, bồng bềnh mây trắng. Bên đằng Đông là những đồi chè san sát như bát úp, xanh non mỡ màng của vùng đất Tân Cương nổi tiếng. Bây giờ theo con thuyền lướt sóng, thả hồn trên mặt hồ rộng đến hai ngàn năm trăm hét ta giữa không gian thoáng đãng của gió núi, mây trời, nhiều người không biết “vịnh Hạ Long” xứ chè này là hồ nước ngọt nhân tạo, khi xưa vốn là một khúc của dòng sông Công. Và, lại càng ít biết, giữa núi rừng ngan ngát hương chè, trên mặt hồ khói sương huyền ảo, hơn sáu trăm năm trước, nơi đây từng là một chiến trường oanh liệt của nghĩa quân Lam Sơn và cũng là quê hương của chiến tướng Lưu Nhân Chú, vị công thần khai quốc nhà Lê, người chém chết tướng Liễu Thăng ở cửa ải Chi Lăng, góp phần làm nên đại thắng quân Minh vào cuối năm 1427.
Nghe kể, công trình hồ núi Cốc được làm cách đấy nửa thế kỷ. Ban đầu hồ là một đoạn của sông Công, một phụ lưu của sông Cầu, chảy vòng quanh núi Cốc. Đập núi Cốc được khởi công xây dựng đầu năm 1972 nhưng do Không quân Mỹ đánh phá trở lại miền Bắc nên công trình bị lùi lại đến đầu năm 1973 mới tái khởi động và được hoàn thành toàn bộ vào năm 1982.
Ngót năm chục năm qua, công trình hồ núi Cốc không chỉ làm giảm nhẹ lũ lụt cho khu vực hạ lưu sông Cầu hay cung cấp nước tưới tiêu cho các vùng trồng trọt ở các tỉnh Bắc Ninh, Bắc Giang, Thái Nguyên, Bắc Kạn mà còn làm thành một thắng cảnh hấp dẫn, nổi tiếng của Thái Nguyên, từng được ví von là “vịnh Hạ Long trên núi”.
Khởi đầu là một khúc sông, chảy bên núi Cốc tựa như nước mắt của nàng Công quấn quanh chàng trai tên Cốc trong câu chuyện tình bi thương hay trong bài ca huyền thoại, giờ đây dòng lệ bi thương ấy đã trở thành hồ sâu mênh mông nước, có sức chứa lên tới một trăm bẩy mươi lăm triệu mét khối, dài đến mười bẩy cây số với tám đập ngăn, trong đó đập chính dài bốn trăm tám mươi mét, cao hai mươi bẩy mét. Và trong hồ nước mênh mông ấy có tám mươi chín hòn đảo; trước kia là những quả đồi, trái núi nay phần chân bị chìm trong biển nước, chỉ còn nhô nên những phần thân và phần ngọn. Tám mươi chín hòn đảo lớn nhỏ lênh đênh trên mặt nước mênh mông, xanh biếc; đêm ngày sóng gợn khiến cho cảnh sắc mặt hồ trở lên lãng mạn và quyến rũ.
Nằm trên non cao, hồ núi Cốc chênh với mực nước biển gần một ngàn mét nên khí hậu ở đây rất mát mẻ, trong lành. Theo con thuyền ra khơi, bồng bềnh trên mặt nước, ta sẽ được mãn nhãn với hình ảnh núi Cốc lung linh in bóng xuống dòng sông Công để rồi không khỏi cảm thương cho mối tình chớm nở đã vội tàn trong câu chuyện xưa.
Ngẫm trong huyền thoại, đất nước này sao tốn nhiều nước mắt đến vậy. Không vợ đợi chồng mỏi mòn đến hóa đá thì cũng tình tan cho đến nước mắt chảy thành sông. Phải chăng chiến tranh liên miên và lễ giáo phong kiến một thời vô cùng hà khắc đã khiến con người trên dải đất này nhìn đâu cũng thấy loạn li, xa cách, đau thương, tang tóc… Cũng thật kỳ diệu, núi sông đất nước ta nơi nao cũng thường hay sóng đôi khiến cho xứ sở trở nên vô vàn diễm lệ.
Ở trên xứ Lạng, sông Kỳ Cùng song hành cùng núi Mẫu Sơn. Kẻ Chợ có núi Nùng sông Nhị. Xứ Đoài có núi Tản sông Đà. Xứ Nam có non Côi sông Vị, núi Thúy sông Vân. Xứ Nghệ có sông Lam núi Hồng. Xứ Huế có sông Hương núi Ngự. Xứ Quảng có núi Ấn sông Trà…
Trong cách nhìn phong thủy, núi sông sóng đôi diễm lệ như thế chẳng những làm thành những cặp âm dương đem lại sinh khí tốt lành cho quê hương mà còn làm thành nguồn cảm hứng bất tận cho người đời sáng tạo nên những huyền thoại chan chứa tình đời với tấm chân tình đầy thương cảm và còn làm thành những thắng cảnh mĩ miều tô điểm cho đất nước muôn phần đẹp tươi.
Mải mê với ngọn núi, dòng sông, thả hồn trên mặt nước xanh thẳm, dạo quanh trên lòng hồ, ta sẽ thấy mỗi một đảo nhỏ trên mặt nước mênh mang là một cảnh sắc riêng biệt nhưng đều rất mơ mộng. Ta sẽ tận mắt thấy được vẻ đẹp nguyên sơ, mượt mà, duyên dáng của cây trên núi; sẽ được hít thở cái không khí trong lành trên mặt hồ lộng gió. Và rồi đến khi mỏi mắt, chủ thuyền sẽ đưa ta vào thăm thú một vài hòn đảo với những cái tên nghe rất thô sơ, mộc mạc như thể đảo Rắn, đảo Khỉ, đảo Cò, đảo núi Cái, đảo Dê… mà mỗi tên đảo đã trở thành một huyền thoại về những loài vật mà đảo mang tên. Và trên thủy trình trải nghiệm khám phá nước non ấy ta không thể không dừng chân trên đảo núi Cái, một hòn đảo lớn nhất trong các hòn đảo trên hồ.

Đảo núi Cái trên hồ núi Cốc
Sau khoảng gần nửa giờ đồng hồ ngồi trên thuyền ngắm cảnh, chúng tôi cập bến vào đảo núi Cái. Hòn đảo chào đón chúng tôi bằng một trăm linh tám bậc gạch và đá cùng chiếc cổng tam quan bề thế dẫn lên một ngôi chùa cổ kính trên núi. Đường đi trên đảo bên những rặng tre xanh và những tượng gốm như thể đưa người ta trở về với miền hoài niệm thủa xa xưa. Trên đảo trưng bày những ngôi nhà cổ hàng trăm năm tuổi và hàng ngàn hiện vật, giới thiệu các sản phẩm văn hóa của gần một trăm làng nghề tiêu biểu của đất nước qua các thời đại với các nền văn hóa rực rỡ như văn hóa Sa Huỳnh, tháp Chàm của miền Nam Trung bộ, văn hóa Óc Eo của đồng bằng Nam bộ.
Đặc biệt, đi qua đoạn đường đầy lá mục, rẽ vào con đường nhỏ có những viên gạch hình tròn (khắc chữ Hán) và hình chữ nhật (khắc hoa văn) được xếp nối tiếp nhau, tạo thành một lối đi thẳng, ta sẽ đến nơi có đồng tiền xu cổ, có khắc chữ Hán (còn gọi là đồng tiền Vạn Lịch). Đồng tiền được đặt trên một bệ đá, trong gian nhà tứ trụ để trống bốn mặt với mái ống uốn cong duyên dáng. Người ta bảo đồng tiền có niên đại hàng trăm năm này được vớt lên từ dưới lòng hồ.
Dường như, theo thăng trầm của thời gian, đồng tiền Vạn Lịch cũng không tránh khỏi sự tàn phá của tạo hóa. Nét tàn phai của cổ vật hiện rõ trên các vết sứt mẻ, hoen rỉ ở trên bề mặt của đồng tiền. Tuy vậy đồng tiền Vạn Lịch này vẫn là một cổ vật có một sức hút lạ kỳ. Đến đây, có lẽ, hiếm người cưỡng được một kiểu ảnh bên nó. Bởi thế, từ một món đồ đồng nát, tưởng như bị thời gian lãng quên đã thành một di tích sống động và nhuốm màu huyền bí.
Khi chiều buông, mặt hồ lung linh như dát vàng, ông lái buông chèo để thuyền đủng đỉnh trôi trên mặt hồ cho khách ngắm nhìn đất trời trong chạng vạng. Nhìn về phía xa xa, nơi đảo Cò xanh thẫm, ta không khỏi sửng sốt và thích thú ngắm trông từng đàn cò trắng hàng trăm con đang mải miết sải đôi cánh, rướn mình trong ánh hoàng hôn lao về phía đảo, hạ xuống, đậu trắng trên các vòm cây. Thoảng trong cái không gian tĩnh mịch, hoang sơ ấy bỗng vang lên một vài tiếng chim “bắt cô trói cột…” nghe đến rợn người. Tiếng chim khiến cho người ta có cảm giác hoang liêu đến lạnh lẽo. Phải chăng, những nỗi niềm oán thán, uất hận của chàng Cốc, nàng Công đến giờ vẫn chưa nguôi ngoai nên vẫn còn như đang gửi vào cả tiếng chim để mỗi buổi chiều hôm lại cất lên mà giãi bày cho người đời tỏ rõ nguồn cơn.
Núi sông xứ chè vô cùng diễm lệ, huyền thoại núi Cốc sông Công lại rất diễm tình. Nhưng hẳn sẽ có nhiều người chưa biết chuyện tình bi thương của chàng trai và cô gái gắn liền với thắng cảnh nổi tiếng của Thái Nguyên kia, cũng có thể là nguồn cảm hứng để nhạc sĩ Phó Đức Phương sáng tác thành ca khúc “Huyền thoại hồ núi Cốc” để đời của mình, lại là câu chuyện được sáng tác theo phong cách dân gian của nhà thơ Ngọc Bái (nguyên là nhà văn quân đội hoạt động ở Việt Bắc, sau giải ngũ và làm Giám đốc Sở Văn hóa tỉnh Yên Bái).
Chuyện là, vào những năm đầu của thập niên bẩy mươi của thế kỷ trước, khi ấy nhà thơ Ngọc Bái học ở Thịnh Đán, ngay bên núi Cốc, thấy trái núi đứng lẻ loi bên tả ngạn sông Công liền nảy sinh cảm hứng về sông núi để sáng tác thành một bài thơ theo phong cách huyền thoại.
Bài thơ ấy có bốn đoạn, mỗi đoạn có một tiêu đề riêng, trong đó phần huyền thoại hồ núi Cốc ở tiêu đề “Trang cổ tích: núi Cốc sông Công”. Nội dung đoạn thơ này như sau: “Đến đây nghe núi kể rằng/ Xưa kia nơi ấy cửa rừng động tiên/ Nàng tiên tên một loài chim/ Chiều thường dạo bước ở bên sông này/ Dòng sông in bóng làn mây/ Nàng thường chải tóc đắm say hoa ngàn/ Bên sông có một anh chàng/ Ngày ngày đốn củi lam làm say mê/ Gặp nàng chẳng dễ dứt về/ Cất lên tiếng hát hát se lòng người/ Tỏ lời lời buộc lấy lời/ Trần tiên chẳng hẹn nên đôi nhân tình/ Ác là trời chẳng phân minh/ Đang tay ra lệnh cấm duyên phũ phàng/ Sông Công từ ấy tên nàng/ Thương nhau để lại một làn nước xanh/ Chàng hóa núi Cốc hiền lành/ Thương nhau đứng sững một mình chờ nhau”. Và, bài thơ này được công bố lần đầu tiên trên Tạp chí “Văn nghệ Việt Bắc” (số 82 năm 1975) với nhan đề “Tiếng hát sông Công” (Theo Vũ Nho, Ai sáng tác huyền thoại Hồ Núi Cốc?, Báo Quân đội nhân dân cuối tuần, ra ngày 22/12/2016).
Huyền thoại và hiện thực của một thắng cảnh xứ chè nổi tiếng là như vậy đấy. Bây giờ về hồ núi Cốc, người ta say sưa hát “Huyền thoại hồ núi Cốc” của nhạc sĩ Phó Đức Phương, yên lặng nghe hướng dẫn viên du lịch kể chuyện “Sự tích núi Cốc sông Công” với tấm lòng đầy thương cảm nhưng có mấy ai biết rằng câu chuyện dân gian ấy là một sáng tác hiện đại theo phong cách huyền thoại. Chỉ thế thôi, nhà thơ Ngọc Bái xứng đáng là một “Hans Christian Andersen” của xứ chè Thái Nguyên và chuyện tình núi Cốc sông Công trong lòng người say cảnh và mê hát.