Hơn 200.000 doanh nghiệp vừa và nhỏ đang tiếp cận vốn ngân hàng

Theo thống kê NHNN, tính đến giữa tháng 6/2025, hơn 209.000 doanh nghiệp vừa và nhỏ đã tiếp cận được nguồn vốn tín dụng từ hệ thống ngân hàng, cho thấy dòng vốn đang lan tỏa mạnh mẽ và đồng hành cùng khu vực kinh tế tư nhân trên khắp cả nước.

Các khách mời tham gia Tọa đàm "Phát huy vai trò của các ngân hàng thương mại trong thực hiện Nghị quyết 68", sáng 27/6 - Ảnh: VGP/Dương Tuấn

Các khách mời tham gia Tọa đàm "Phát huy vai trò của các ngân hàng thương mại trong thực hiện Nghị quyết 68", sáng 27/6 - Ảnh: VGP/Dương Tuấn

Chia sẻ tại tọa đàm "Phát huy vai trò của các ngân hàng thương mại trong thực hiện Nghị quyết 68" ngày 27/6, Tiến sĩ Nguyễn Sĩ Dũng, nguyên Phó Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội cho rằng: "Vốn tín dụng là mạch máu của nền kinh tế. Nếu không có dòng chảy vốn, doanh nghiệp sẽ bị 'tắc nghẽn' và không thể phát triển. Trong đó, các ngân hàng thương mại giữ vai trò đặc biệt quan trọng khi vừa là nhà cung ứng, vừa là người điều phối dòng chảy vốn, giúp hệ thống vận hành thông suốt".

Theo ông Dũng, Nghị quyết 68 đã mở ra cơ hội mới, nhưng cũng đặt ra những yêu cầu mới với ngành ngân hàng. Muốn kinh tế tư nhân phát triển mạnh mẽ, hệ thống ngân hàng phải chủ động chuẩn bị các giải pháp đa dạng hóa nguồn vốn, tạo điều kiện thuận lợi nhất để doanh nghiệp tiếp cận tín dụng.

Bên cạnh đó, các cơ chế, chính sách về tín dụng cần tiếp tục được hoàn thiện, đảm bảo sự đồng bộ và phù hợp với thực tiễn. "Các ngân hàng thương mại sẽ là lực lượng nòng cốt trong việc hiện thực hóa Nghị quyết 68, trở thành cầu nối quan trọng giúp khu vực tư nhân bứt phá trong giai đoạn phát triển mới," ông Dũng chia sẻ tại tọa đàm do Cổng Thông tin điện tử Chính phủ tổ chức.

TS. Nguyễn Sĩ Dũng: NHNN đã bảo đảm an toàn hệ thống, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô và thúc đẩy hiệu quả các chương trình tín dụng, tạo điều kiện để doanh nghiệp tiếp cận nguồn vốn thuận lợi hơn. Ảnh: VGP/Dương Tuấn

TS. Nguyễn Sĩ Dũng: NHNN đã bảo đảm an toàn hệ thống, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô và thúc đẩy hiệu quả các chương trình tín dụng, tạo điều kiện để doanh nghiệp tiếp cận nguồn vốn thuận lợi hơn. Ảnh: VGP/Dương Tuấn

Tín dụng lan tỏa mạnh mẽ tới doanh nghiệp tư nhân

Thông tin tại tọa đàm, ông Nguyễn Phi Lân, Vụ trưởng Vụ Dự báo, thống kê - Ổn định tiền tệ, tài chính (Ngân hàng Nhà nước) cho biết, tính đến ngày 18/6/2025, dư nợ tín dụng toàn hệ thống đã đạt hơn 16,73 triệu tỷ đồng, tăng 7,14% so với cuối năm 2024 và tăng tới 18,71% so với cùng kỳ năm trước.

Qua quá trình thống kê thì thấy rằng, có đến 100 tổ chức tín dụng đã phát sinh tỷ lệ dư nợ đối với khu vực kinh tế tư nhân. Và trong đó có khoảng 209.000 doanh nghiệp vừa và nhỏ đều có phát sinh dư nợ tại các tổ chức tín dụng, đặc biệt là các ngân hàng thương mại. "Điều này khẳng định dòng vốn tín dụng đã lan tỏa đến mọi phân khúc của các doanh nghiệp, mọi phân khúc của nền kinh tế," ông Lân chia sẻ.

"Điều này không chỉ phản ánh sức sống mạnh mẽ của khu vực tư nhân, mà còn cho thấy nỗ lực của ngành ngân hàng trong việc đồng hành và hỗ trợ doanh nghiệp tư nhân phục hồi và phát triển. Thời gian qua, các ngân hàng đã chủ động cơ cấu lại thời gian trả nợ, miễn giảm lãi suất, hỗ trợ doanh nghiệp vượt khó sau đại dịch COVID-19 hay những tác động từ thiên tai như bão Yagi. Đồng thời, các tổ chức tín dụng cũng không ngừng cải tiến quy trình, đẩy mạnh số hóa dịch vụ, đa dạng hóa sản phẩm và đơn giản hóa thủ tục cho vay nhằm giảm chi phí và thời gian cho khách hàng," đại diện Ngân hàng Nhà nước cho biết.

Tuy nhiên, bên cạnh những cơ hội lớn, Nghị quyết 68 cũng đặt ra không ít thách thức đối với khu vực kinh tế tư nhân. Ông Nguyễn Phi Lân cho rằng, một trong những yêu cầu quan trọng mà Nghị quyết nhấn mạnh là doanh nghiệp tư nhân phải xây dựng hệ thống tài chính minh bạch, lành mạnh và nâng cao năng lực quản trị, đặc biệt là quản trị tài chính. Yêu cầu này không chỉ áp dụng với các doanh nghiệp vừa và nhỏ mà còn đặt ra cho cả các ngân hàng thương mại.

Nghị quyết cũng thúc đẩy các doanh nghiệp tư nhân đầu tư bài bản hơn, lựa chọn chiến lược phát triển phù hợp với phân khúc thị trường mà mình đang hướng tới. Việc đa dạng hóa nguồn vốn được khuyến khích nhằm giúp doanh nghiệp giảm rủi ro, tránh phụ thuộc quá nhiều vào tín dụng ngân hàng. Thay vào đó, doanh nghiệp có thể tiếp cận các nguồn vốn từ trong nước, quốc tế, thông qua các hình thức như liên doanh, liên kết, cổ phần hóa, phát hành cổ phiếu, trái phiếu trên thị trường chứng khoán.

Trong bối cảnh nền kinh tế bước sang một giai đoạn mới, các doanh nghiệp tư nhân buộc phải thay đổi và nâng cao năng lực cạnh tranh. Ngành ngân hàng, với vai trò đồng hành, cũng cần chuyển mình mạnh mẽ.

Theo đó, ngân hàng cần nâng cao năng lực quản trị rủi ro, đảm bảo dòng vốn tín dụng được phân bổ hợp lý, tập trung vào các lĩnh vực ưu tiên và thực sự cần thiết cho khu vực kinh tế tư nhân. Bên cạnh đó, ngân hàng phải đẩy mạnh ứng dụng công nghệ số, đơn giản hóa quy trình, đa dạng hóa sản phẩm tín dụng, tạo ra những dịch vụ tài chính thuận tiện, dễ tiếp cận cho doanh nghiệp.

Đồng thời, các ngân hàng cần chủ động hỗ trợ tư vấn, thiết kế các sản phẩm tài chính chuyên biệt, phù hợp với nhu cầu thực tế của từng doanh nghiệp để các sản phẩm tài chính thực sự trở thành công cụ hữu ích, hỗ trợ doanh nghiệp phát triển bền vững.

Song song với việc đổi mới, ngân hàng cũng phải tuân thủ nghiêm ngặt các quy trình chuẩn mực, phù hợp với thông lệ quốc tế, nhằm đảm bảo hệ thống tài chính vận hành an toàn, minh bạch và hiệu quả.

Các tổ chức tín dụng đang giữ vai trò như những 'bà đỡ' của nền kinh tế

Dưới góc độ doanh nghiệp, ông Lê Hoàng Châu - Chủ tịch Hiệp hội Bất động sản TP HCM (HOREA) cho rằng, hiện nay, các tổ chức tín dụng đang giữ vai trò như những "bà đỡ" quan trọng của nền kinh tế, đặc biệt với thị trường bất động sản. Theo ông Châu, khi doanh nghiệp bất động sản hoàn tất việc tạo lập quỹ đất, nhu cầu cấp thiết nhất chính là dòng vốn để triển khai xây dựng dự án. Đây là giai đoạn các doanh nghiệp rất cần sự hỗ trợ từ nguồn vốn tín dụng, bởi lúc đó họ chưa thể huy động vốn từ khách hàng do chưa đủ điều kiện pháp lý hoặc hạ tầng chưa hoàn thiện.

Theo Chủ tịch HOREA, vốn tín dụng giống như "nguồn nước đầu nguồn" giúp doanh nghiệp khởi động dự án. Thực tế đã chứng minh, nhiều tập đoàn và doanh nghiệp bất động sản có uy tín đã sử dụng vốn vay hiệu quả, đúng mục đích, giúp dự án hoàn thiện đúng tiến độ, tạo sản phẩm cho thị trường và trả nợ đầy đủ cho ngân hàng. Tuy nhiên, vẫn có không ít doanh nghiệp yếu kém, đầu tư dàn trải, sử dụng vốn sai mục đích, thậm chí gây rủi ro cho cả hệ thống tín dụng.

Mối quan hệ giữa ngân hàng và doanh nghiệp phải là mối quan hệ hai chiều. Ngân hàng đóng vai trò 'bà đỡ' nhưng doanh nghiệp cũng phải có trách nhiệm bảo vệ sự an toàn của hệ thống tài chính. Ông Lê Hoàng Châu - Chủ tịch Hiệp hội Bất động sản TP HCM (HOREA)

Một thách thức lớn của thị trường hiện nay là hệ thống các quỹ đầu tư tài chính tại Việt Nam vẫn chưa phát triển tương xứng. Hiện, quỹ đầu tư tài chính của ngân hàng mới chỉ có Techcombank triển khai, trong khi thị trường vốn lại thiếu hụt các kênh huy động trung và dài hạn. Việc khai thác vốn từ thị trường chứng khoán cũng chưa hiệu quả khi chỉ có khoảng 1.600 doanh nghiệp đủ điều kiện niêm yết, trong đó số doanh nghiệp bất động sản chiếm tỷ lệ rất nhỏ.

Theo ông Châu, kênh phát hành trái phiếu doanh nghiệp - vốn được kỳ vọng là giải pháp huy động vốn trung và dài hạn - hiện cũng đang gặp khó vì nhiều quy định siết chặt và những rủi ro phát sinh trong thời gian qua. Vì vậy, các tổ chức tín dụng vẫn là kênh cung cấp vốn gần như duy nhất và đóng vai trò then chốt với thị trường bất động sản.

Tuy nhiên, các ngân hàng cũng đang phải đối mặt với một bài toán khó: phần lớn nguồn vốn huy động hiện nay (80% - 90%) là vốn ngắn hạn, trong khi bất động sản lại cần nguồn vốn trung và dài hạn. "Rủi ro này các doanh nghiệp bất động sản cần phải thấu hiểu và chia sẻ. Chúng ta không thể chỉ trông chờ vào ngân hàng mà phải mở rộng thêm các kênh huy động vốn mới," ông Châu nói.

Ông kỳ vọng trong thời gian tới sẽ có thêm các quỹ đầu tư tài chính phát triển mạnh để chia sẻ gánh nặng với hệ thống ngân hàng, đồng thời khuyến nghị doanh nghiệp bất động sản phải sử dụng vốn đúng mục đích, kiểm soát rủi ro và có chiến lược phát triển bền vững, nhằm duy trì mối quan hệ tin cậy với các tổ chức tín dụng.

Cùng quan điểm với ông Châu, ông Đậu Anh Tuấn, Phó Tổng Thư ký, Trưởng Ban Pháp chế của VCCI chia sẻ: "Tôi còn nhớ khi trao đổi với nhiều doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ, không ít doanh nghiệp chia sẻ rằng: vấn đề không nằm ở việc doanh nghiệp Việt Nam thiếu năng lực hay công nghệ để tham gia sâu vào chuỗi cung ứng toàn cầu. Điểm yếu lớn nhất của chúng ta chính là chi phí vốn quá cao. Trong khi các doanh nghiệp tại Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan (Trung Quốc) có thể tiếp cận nguồn vốn chi phí thấp, lãi suất chỉ khoảng 2-3%/năm với kỳ hạn dài, thì các doanh nghiệp Việt Nam lại phải vay với lãi suất cao, khiến các dự án đầu tư dài hạn trở nên thiếu khả thi về mặt kinh tế. Chi phí vốn ảnh hưởng trực tiếp tới hiệu quả kinh doanh, quyết định sức cạnh tranh của doanh nghiệp".

"Chính vì vậy, chúng tôi đánh giá rất cao những nỗ lực của Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước (NHNN) trong việc kiểm soát và từng bước hạ nhiệt mặt bằng lãi suất thời gian qua. Dù đối mặt với nhiều thách thức, Chính phủ vẫn kiên trì với mục tiêu giữ ổn định lãi suất – đây là một kết quả rất đáng ghi nhận trong giai đoạn 2024-2025," lãnh đạo VCCI nói.

Một điểm sáng nữa là việc mạnh dạn tháo gỡ các vướng mắc pháp lý. Chẳng hạn, Luật Các tổ chức tín dụng dù mới được sửa đổi năm ngoái nhưng vẫn còn nhiều bất cập, đặc biệt trong xử lý nợ xấu. Ngay trong kỳ họp này, Chính phủ tiếp tục trình Quốc hội để sửa luật lần nữa. Theo quy trình thông thường, việc sửa luật cần nhiều năm, nhưng lần này, Chính phủ không ngại "vào cuộc" ngay. Điều đó cho thấy tinh thần quyết liệt, chủ động trong việc khơi thông dòng vốn cho nền kinh tế.

Tuy nhiên, cần nhìn nhận thẳng thắn rằng hệ thống tài chính Việt Nam hiện nay vẫn đang phụ thuộc quá lớn vào nguồn vốn tín dụng ngân hàng. Trong khi các nước phát triển đã đa dạng hóa nguồn vốn thông qua thị trường trái phiếu, chứng khoán, thì những kênh huy động vốn trung và dài hạn tại Việt Nam vẫn còn yếu và chưa đáp ứng được nhu cầu. Chính vì vậy, các ngân hàng thương mại đang phải "gánh" phần lớn nhu cầu vốn của nền kinh tế, đặc biệt là khu vực tư nhân.

Sức ép này đòi hỏi hệ thống ngân hàng không chỉ mở rộng tín dụng mà còn phải đảm bảo an toàn, ổn định kinh tế vĩ mô, duy trì các cân đối lớn của nền kinh tế. Đây thực sự là một bài toán khó và sẽ là thách thức lớn trong thời gian tới, khi chúng ta cùng hướng đến mục tiêu phát triển bền vững, an toàn và hiệu quả hơn cho toàn hệ thống, ông Tuấn chia sẻ.

Hơn 500.000 tỷ đồng sẵn sàng tiếp vốn cho doanh nghiệp

Trước những chia sẻ của các lãnh đạo doanh nghiệp, ông Nguyễn Phi Lân cho biết ngay sau khi Nghị quyết 68 được ban hành, ngành ngân hàng đã nhanh chóng triển khai các bước cụ thể hóa. Hai quyết định quan trọng của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước đã được ban hành, nhằm thực thi Nghị quyết 68 của Bộ Chính trị và Nghị quyết 198 của Quốc hội. Song song, ngành ngân hàng cũng cụ thể hóa các nghị quyết 138 và 139 của Chính phủ thông qua hai quyết định số 2415 và 2416 - chính thức khởi động toàn bộ chương trình hành động của ngành.

Việc triển khai không chỉ tập trung vào các giải pháp ngắn hạn mà còn bao quát cả trung và dài hạn, với mục tiêu xuyên suốt là hoàn thiện hành lang pháp lý cho hoạt động ngân hàng và tiền tệ. Một trong những điểm nhấn quan trọng là việc ngành ngân hàng đã tham mưu cho Chính phủ đưa các quy định của Nghị quyết 42 vào Luật Các tổ chức tín dụng để tháo gỡ những "nút thắt" trong xử lý nợ xấu, một vấn đề tồn đọng nhiều năm qua. Việc Luật Các tổ chức tín dụng được thông qua ngay tại kỳ họp này là một bước tiến lớn, mở đường cho ngành ngân hàng xử lý hiệu quả các khoản nợ xấu, khơi thông dòng vốn cho nền kinh tế.

Một trong những yếu tố then chốt để hỗ trợ doanh nghiệp tư nhân chính là xây dựng một môi trường kinh doanh an toàn, lành mạnh, giúp doanh nghiệp tin tưởng và sẵn sàng hợp tác với hệ thống ngân hàng. Để làm được điều đó, chính sách tiền tệ phải được điều hành linh hoạt, kịp thời và phối hợp chặt chẽ với các chính sách tài khóa, nhằm giữ ổn định kinh tế vĩ mô. Khi nền kinh tế ổn định, doanh nghiệp sẽ mạnh dạn vay vốn và đầu tư. Ngân hàng, như cách ông Lê Hoàng Châu ví von, không chỉ là 'bà đỡ' về vốn mà còn là chỗ dựa về môi trường tài chính lành mạnh. Ông Nguyễn Phi Lân, Vụ trưởng Vụ Dự báo, thống kê - Ổn định tiền tệ, tài chính (Ngân hàng Nhà nước)

Bên cạnh đó, ngành ngân hàng cũng đang chú trọng kiểm soát tăng trưởng tín dụng theo hướng an toàn và hiệu quả. Tính đến thời điểm hiện tại, tín dụng toàn hệ thống đã đạt khoảng 16,5 triệu tỷ đồng, tăng gần 19% so với cùng kỳ năm ngoái – cho thấy khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế đang dần cải thiện. Ngành ngân hàng tiếp tục cam kết đồng hành cùng doanh nghiệp, đặc biệt là khu vực kinh tế tư nhân, trong việc cung cấp nguồn vốn ổn định và bền vững.

Không chỉ vậy, cải cách hành chính trong hoạt động ngân hàng cũng đang được đẩy mạnh. Thống đốc Ngân hàng Nhà nước đã chỉ đạo đơn giản hóa thủ tục cho vay, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho người dân và doanh nghiệp tiếp cận vốn. Đây là một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong kế hoạch hành động của toàn ngành.

Ông Lân nhấn mạnh: "Ngành ngân hàng không chỉ cung cấp vốn, mà còn phải tự nâng cao năng lực, đảm bảo hệ thống vận hành an toàn, hiệu quả. Khi các ngân hàng vận hành tốt, chi phí vốn sẽ giảm, qua đó hỗ trợ trực tiếp cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Ngược lại, nếu ngân hàng yếu kém, chi phí vốn sẽ bị đẩy lên, doanh nghiệp sẽ chịu ảnh hưởng nặng nề."

Cùng với đó, ngành ngân hàng đang tích cực thúc đẩy thanh toán không dùng tiền mặt và đẩy mạnh chuyển đổi số – những xu hướng không thể đảo ngược trong giai đoạn hiện nay.

Một điểm sáng là đến nay, đã có 21 ngân hàng thương mại đăng ký tham gia gói tín dụng 500.000 tỷ đồng. Trong đó, 4 ngân hàng thương mại Nhà nước giữ vai trò chủ lực, mỗi ngân hàng cam kết hơn 60.000 tỷ đồng. 12 ngân hàng cổ phần lớn cũng tham gia tích cực với mức đăng ký hơn 20.000 tỷ đồng mỗi đơn vị, còn các ngân hàng nhỏ hơn đăng ký khoảng 4.000 tỷ đồng mỗi đơn vị.

Theo ông Lân, điều này cho thấy ngành ngân hàng luôn đồng hành cùng doanh nghiệp, vừa đảm bảo an toàn hệ thống, vừa chủ động cung cấp những gói tín dụng thiết thực để tiếp sức cho nền kinh tế. Đây cũng chính là cam kết xuyên suốt của ngành ngân hàng trong việc thực hiện Nghị quyết 68 – tạo ra dòng vốn lành mạnh, ổn định và hiệu quả cho sự phát triển của doanh nghiệp Việt Nam.

Thu Trang

Nguồn Mekong Asean: https://mekongasean.vn/hon-200000-doanh-nghiep-vua-va-nho-dang-tiep-can-von-ngan-hang-43180.html
Zalo