Hồi ức về 'ông Ké' từ 'trái tim' Thủ đô Khu giải phóng

Không chỉ là một địa danh, Tân Trào đã trở thành biểu tượng bất diệt của tinh thần độc lập - nơi khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Từ mảnh đất thiêng liêng ấy, ngọn lửa Cách mạng Tháng Tám đã được hun đúc, bùng cháy mạnh mẽ, thắp lên niềm tin và ý chí sắt đá cho toàn dân tộc.

80 năm trôi qua, kể từ ngày Bác Hồ chọn Tuyên Quang làm “Thủ đô Khu Giải phóng”, mảnh đất kiên trung, sắt son nghĩa tình ấy vẫn vẹn nguyên lời thề, cùng “Toàn thể dân Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mệnh và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy”…

"Lời Bác là ý chí sắt đá của Đảng, quyết tâm của cả dân tộc"

Mỗi độ thu về, khi sắc vàng nhuộm vàng trên những cánh đồng lúa, chúng tôi lại hòa vào mình vào dòng người từ khắp mọi miền đất nước để bắt đầu cho chuyến hành trình về nguồn tại Khu di tích Quốc gia đặc biệt Tân Trào. Nổi bật giữa thung lũng thơ mộng của núi rừng là những nếp nhà sàn khang trang theo lối kiến trúc của người Tày. Thoảng trong hương gió là âm vang của tiếng đàn tính hòa với làn điệu hát then vang lên giữa núi rừng.

Lán Nà Nưa nằm dưới tán rừng Tân Trào (Sơn Dương) nơi Bác Hồ đã ở và làm việc từ cuối tháng 5 đến cuối tháng 8/1945

Lán Nà Nưa nằm dưới tán rừng Tân Trào (Sơn Dương) nơi Bác Hồ đã ở và làm việc từ cuối tháng 5 đến cuối tháng 8/1945

Theo lời kể của người dân trong vùng, Tân Trào xưa kia, địa thế hiểm yếu, bốn phía xung quanh đều được bao bọc bởi ngọn núi Hồng, núi Thía, núi Bòng sừng sững tựa như những bức tường thành. Vây quanh thôn xóm là nhấp nhô các núi nhỏ và là hệ thống sông ngòi chằng chịt. Đặc biệt, sâu trong nội địa khu căn cứ có một hệ thống đường mòn xuyên rừng chằng chịt, dọc ngang nối liền các làng xã, thôn bản với nhau. Từ những con đường xuyên núi, vượt đèo đó có thể đi khắp mọi hướng ngược qua Bắc Cạn lên Cao Bằng; sang Vị Xuyên (Hà Giang cũ), ra biên giới Việt Trung; vượt qua các dãy núi phía Đông sang Đại Từ, Định Hóa (Thái Nguyên); phía Nam dọc theo chân núi Hồng xuống các huyện Tam Đảo, Lập Thạch (Vĩnh Phúc cũ)…

Có lẽ chính vì thế núi, hình sông như vậy mà tháng 5-1945, trước những yêu cầu của cách mạng, Bác Hồ quyết định rời Pác Bó, Cao Bằng về Tân Trào và chọn nơi đây “trái tim Thủ đô Khu giải phóng”.

Tại Tân Trào, Trung ương Đảng và Bác Hồ đã có những quyết định quan trọng, lãnh đạo thành công cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước. Và đặc biệt ngày 16-17/8/1945, tại Đình Tân Trào đã diễn ra Quốc dân Đại hội thông qua Nghị quyết Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước. Trong thời điểm sắp diễn ra Đại hội, thì một tình huống hiểm nghèo lại đến: Bác sốt nặng, trong cơn “thập tử nhất sinh” Bác đã gọi Đại tướng Võ Nguyên Giáp lại gần và căn dặn:“ Lúc này thời cơ thuận lợi đã tới, dù hy sinh lớn tới đâu, dù phải đốt cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập…”

Đình Tân Trào đã được Bác Hồ và Trung ương Đảng chọn làm nơi tổ chức Quốc dân Đại hội vào ngày 16 và 17/8/1945.

Đình Tân Trào đã được Bác Hồ và Trung ương Đảng chọn làm nơi tổ chức Quốc dân Đại hội vào ngày 16 và 17/8/1945.

Lời Bác là ý chí sắt đá của Đảng, quyết tâm của cả dân tộc, Hội nghị Đại biểu toàn quốc của Đảng và Đại hội Đại biểu Quốc dân đã diễn ra ở Tân Trào đúng như quyết định của Người. Đây được ví như Hội nghị Diên Hồng lần thứ hai của dân tộc Việt Nam, mang tầm vóc lịch sử một Quốc hội của nước Việt Nam mới, một cơ quan quyền lực lâm thời tối cao của dân, do dân và vì dân. Từ đây, lệnh tổng khởi nghĩa được truyền đi: "Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”. Hưởng ứng lời hiệu triệu của Chủ tịch Hồ Chí Minh, hơn 20 triệu đồng bào cả nước đã nhất tề đứng lên khởi nghĩa giành chính quyền trong toàn quốc. Để rồi trong sáng thu ngày 2.9.1945, tại Quảng trường Ba Đình lịch sử trước gần một triệu đồng bào, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ Lâm thời trịnh trọng đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, tuyên bố với quốc dân đồng bào và toàn thể thế giới: Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy!...

Ông “ Ké” về cả làng vui

Trong chuyến đi lần này, chúng tôi may mắn được gặp những người đã từng được gặp gỡ, tiếp xúc với Bác Hồ. Trong số đó, có ông Hoàng Trung Ngọc ( tên hay gọi là Hoàng Ngọc) , cụ thân sinh ra ông vốn là giao liên đặc biệt của Bác Hồ có tên là Hoàng Trung Nguyên.

Theo hồi ức của ông Ngọc, làng Tân Lập xưa kia có tên là Kim Long, nơi sinh sống của bà con dân tộc Tày. Cả làng Làng Kim Long chỉ có hơn hai chục nóc nhà và được bao bọc bởi núi Hồng cao vút, vô cùng hiểm trở, “nội bất xuất, ngoại bất nhập”, “Kim Long đất hiểm tứ bề/ Kẻ địch muốn chết thì về Kim Long". Có lẽ vì địa hình hiểm trở, tách biệt mà cuộc sống của bà con lúc ấy vô cùng bần hàn, cơ cực. Người dân Kim Long lúc đó chỉ biết sống lay lắt qua cơn đói bằng củ ấu, củ mài đào trên rừng. Tối đến, nhà nào cũng chỉ le lói ánh đèn dầu nai, dầu dọc. Khi ốm chỉ chữa bệnh bằng cúng bái, bói toán…

Tranh sơn dầu Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Quốc dân Đại hội

Tranh sơn dầu Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Quốc dân Đại hội

Rồi vùng đất heo hút ấy bắt đầu có sự đổi thay kể từ ngày có “ông Ké” về làng. Khẽ vuốt chòm râu đã ngả màu trắng tuyết, ông kể: Vào buổi chiều 21/5/1945, khi ông và những người bạn đang chơi đùa thì có 1 đoàn người đi men bờ ao vào nhà ông Tiến Sự. Khi đi qua chỗ lũ trẻ làng, người lớn tuổi nhất ăn mặc giản dị dừng lại và hỏi:

- Các cháu đang làm gì!

- Các cháu đang đánh quay!

- Các cháu có đi học không?

- Dạ thưa, các cháu chẳng có trường

- Mai kia có trường có lớp phải đi học nhé

- Vâng ạ!

Đó là cuộc gặp gỡ đầu tiên giữa ông Ké và những đứa trẻ trong làng Kim Long xưa được ông Ngọc xúc động kể lại. Không chỉ có vậy, sau này mỗi lần gặp gỡ lũ trẻ trong làng, ông Ké thường nhắc nhở: Khi đi chăn trâu cắt cỏ, thấy người lạ phải báo cho bộ đội, cho cách mạng, phải giữ gìn bí mật, bảo đảm tốt cho cách mạng. Ngày đó, những đứa trẻ như ông Ngọc chưa hiểu cách mạng là gì nhưng vẫn nhất nghe theo lời ông Ké. Ông Ngọc hồi tưởng, có lần khi đang chơi, ông cũng được ông Ké gọi lại và nói :

- Thằng cu Ngọc tham gia Đội Nhi đồng cứu quốc nhé!

- Đội Nhi đồng cứu quốc làm việc gì vậy ông?

- Thằng cu Ngọc đứng ra, tập hợp thêm 2, 3 bạn nữa có nhiệm vụ là đi chăn trâu, chăn bò, đi nương, đi rẫy nếu thấy người lạ mặt vào làng là phải thông báo ngay cho các chú bộ đội.

Sau đó, ông Ngọc đứng ra, tập hợp được thêm 3 người gồm Nguyễn Văn Khoái, Nông Văn Giai, Ma Văn Hiền thành đội viên của Đội Nhi đồng cứu quốc. “Nhiệm vụ của chúng tôi chỉ có vậy. Tuổi nhỏ làm việc nhỏ, tùy theo sức của mình nhưng là thực hiện nhiệm vụ ông Ké trực tiếp giao phó, 4 chúng tôi vinh dự, tự hào, hăng hái lắm”, ông Ngọc cười tươi đầy tự hào kể với chúng tôi.

Ngày ấy, Kim Long sục sôi như “chảo lửa”. Đảm bảo bí mật là yêu cầu hàng đầu lúc bấy giờ. Có lần, ông Ké đi thăm bản, thấy người dân đang giã gạo nên hỏi:

- Các cháu giã gạo làm gì vậy?

- Chúng cháu giã gạo cho bộ đội ạ!

Ông Ké lại hỏi:

- Thứ quý giá như tiền thì các cháu thường cất ở đâu?

- Chúng cháu cất trong túi, trong hòm ạ.

"Làm cách mạng còn quý hơn tiền, nên càng cần phải bí mật, càng phải cất kỹ hơn", đó là lời ông Ké dặn dò chúng tôi. Ông Ngọc bồi hồi nhớ lại.

Ngày 20/3/1961, Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm lại đình Tân Trào, nơi Người đã chủ trì Quốc dân Đại hội, quyết định Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945, bầu ra Ủy ban dân tộc giải phóng. Ảnh: Tư liệu

Ngày 20/3/1961, Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm lại đình Tân Trào, nơi Người đã chủ trì Quốc dân Đại hội, quyết định Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945, bầu ra Ủy ban dân tộc giải phóng. Ảnh: Tư liệu

Ông Ngọc cũng không biết từ bao giờ dân làng ông cứ gọi bác với hai tiếng thân mật “ông Ké”. Mãi sau này mọi người trong làng mới biết ông Ké chính là Bác Hồ, là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Lúc mới về làng, “ông Ké” ở trong ngôi nhà sàn của ông Nguyễn Tiến Sự, rồi sau đó chuyển lên lán Nà Nưa.

Nói về lán Nà Nưa, ông Ngọc lại nhìn lên phía ngọn núi Hồng trầm lặng xanh ngắt, ký ức thủa xưa theo cha đi khắp núi rừng lại hiện về.

"Nói về ông Ké thì nhiều kỷ niệm lắm, nhưng tôi nhớ như in, tháng 7 /1945, Bác ốm rất nặng, Nhân dân trong làng đều đi tìm thuốc về để chữa cho Bác. May sao có một bà ở dưới Đại Từ biết thuốc người Dao, Mán lấy về cho Bác tắm. Rồi cùng nhiều loại thuốc vào, Bác đỡ dần dần. Một hôm, Đại tướng Võ Nguyên Giáp khi đó gọi là chú Văn xin ngủ lại trông Bác ở trên lán. Sau tôi nghe bố kể là, tối đó Bác Hồ nói bác Võ Nguyên Giáp rằng “Lúc này thời cơ thuận lợi đã tới, dù hy sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập”, Ông Ngọc trầm ngâm.

Ngồi lâu mỏi, ông Ngọc đứng dậy vươn vai, lắc mình: Ngày trước Bác Hồ cũng dạy chúng tôi vươn vai lắc mình như vậy. Chúng tôi đâu có biết đó là luyện tập thể dục thể thao, chỉ biết tấm tắc khen “ ông Ké này rất hay” cái gì cũng biết…

Ông Hoàng Ngọc người may mắn đã được gặp Bác Hồ và các cán bộ Trung ương Đảng trong những năm tháng Bác ở Tuyên Quang

Ông Hoàng Ngọc người may mắn đã được gặp Bác Hồ và các cán bộ Trung ương Đảng trong những năm tháng Bác ở Tuyên Quang

Đặc biệt, với ông và tất cả người dân nơi đây đều không thể quên dưới mái đình Tân Trào ngày 16/8/1945, các đại biểu trên khắp mọi miền Tổ quốc đã về họp Quốc dân Đại hội. Sáng ngày 17/8/1945, thay mặt Ủy ban Dân tộc Giải phóng Việt Nam, Bác Hồ đã đứng bên cạnh hòn đá “Thạch Ban” phía trước Đình để đọc lời thề thiêng liêng trong lễ ra mắt Quốc dân. May mắn thay, trong giây phút lịch sử đó, ông Ngọc được là một trong những thành viên trong “Nam Phụ Lão Ấu” đến chào mừng Đại hội.

Thời gian, vốn như con tạo xoay vần, thấm thoát kể từ này cậu bé Ngọc đen nhẻm với mái tóc cháy nắng, giờ đã là ông lão gần 90, nhưng ký ức về Bác Hồ vẫn in đậm mãi trong lòng ông và nhớ về Bác ông vẫn mãi là thằng "Cu Ngọc" thuở lên 8.

Chia tay ông, người thiếu niên người Tày năm xưa, lặng ngắm dòng sông Đáy huyền thoại uốn khúc, bên tai tôi vẫn nghe văng vẳng những câu thơ trong bài “Đi thuyền trên sông Đáy” do chính Bác Hồ viết được ông Ngọc ngâm nga trong nắng vàng: Dòng sông lặng ngắt như tờ/ Sao đưa thuyền chạy, thuyền chờ trăng theo/ Bốn bề phong cảnh vắng teo/ Chỉ nghe cót két tiếng chèo thuyền nan/Lòng riêng riêng những bàng hoàng/Lo sao khôi phục giang san Tiên Rồng/ Thuyền về, trời đã rạng đông/Bao la nhuốm một màu hồng đẹp tươi...

Một góc Tân Trào hôm nay

Một góc Tân Trào hôm nay

Rời nhà ông Ngọc khi nắng đã phủ đầy sân, tôi dạo bước trên những con đường mà năm xưa từng in dấu chân Bác Hồ. 80 năm đã trôi qua, nhưng chắc những giá trị của những quyết định lịch sử tại Tân Trào, đặc biệt trong đó có nguyên tắc “của dân, do dân, vì dân” vẫn luôn là kim chỉ nam soi sáng con đường cách mạng dân tộc trên con đường đổi mới, hội nhập và phát triển bền vững. Đặc biệt, trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, mô hình chính quyền địa phương 2 cấp đang được triển khai cũng hướng tới bộ máy tinh gọn, phục vụ Nhân dân tốt hơn, đúng tinh thần “của dân, do dân, vì dân” mà Quốc dân Đại hội từng khẳng định.

Ghi chép của Bách Hợp

Nguồn Đại Biểu Nhân Dân: https://daibieunhandan.vn/hoi-uc-ve-ong-ke-tu-trai-tim-thu-do-khu-giai-phong-10383956.html
Zalo