Hồi ức hào hùng về trận đánh mở màn Chiến dịch Tây Nguyên
Chiến tranh đã lùi xa nửa thế kỷ, nhưng những dấu ấn về sự chuẩn bị công phu, chiến thuật táo bạo và tinh thần đấu tranh quả cảm trong trận đánh mở màn cho Chiến dịch Tây Nguyên vẫn in đậm trong ký ức của Anh hùng lực lượng vũ trang Đoàn Sinh Hưởng.
Hành quân bí mật, chuẩn bị cho trận đánh quyết định
Ngày 5/3, Bộ Quốc phòng chủ trì phối hợp với Tỉnh ủy Đắk Lắk tổ chức Hội thảo khoa học với chủ đề: "Chiến thắng Tây Nguyên 1975 và nửa thế kỷ xây dựng, phát triển Đắk Lắk".
Nhìn lại trận đánh mở màn thắng lợi cho Chiến dịch Tây Nguyên, Trung tướng, Tiến sĩ, Anh hùng lực lượng vũ trang Đoàn Sinh Hưởng, nguyên Tư lệnh Binh chủng Tăng Thiết giáp; nguyên Tư lệnh Quân khu 4; cựu chiến binh trực tiếp tham gia Chiến dịch Tây Nguyên 1975 chia sẻ: "Trong cuộc đời quân ngũ, trận đánh để lại trong tôi suy ngẫm về nghệ thuật sử dụng tăng thiết giáp trong thực hành chiến đấu nhiều nhất là tiến công thị xã Buôn Ma Thuột, trận then chốt thứ nhất trong chiến dịch Tây Nguyên".

Toàn cảnh Hội thảo khoa học với chủ đề: "Chiến thắng Tây Nguyên 1975 và nửa thế kỷ xây dựng, phát triển Đắk Lắk".
Trung tướng Đoàn Sinh Hưởng kể, ngày 17/1/1975, Trung đoàn Tăng - Thiết giáp 273 của đơn vị ông được lệnh hành quân di chuyển đội hình xuống phía nam Tây Nguyên. Đại đội 9 của ông trong đội hình Trung đoàn bí mật vượt qua 300km an toàn đến vị trí tập kết ở Buôn Gia Wầm, cách Buôn Ma Thuột 40km về phía bắc, sẵn sàng tiến công giải phóng mục tiêu then chốt quyết định là Buôn Ma Thuột.
"Công tác chuẩn bị hết sức công phu, cả về kỹ thuật và chiến thuật. Đại đội 9 được trang bị toàn bộ xe tăng T-54B thế hệ mới, chúng tôi tổ chức cho từng kíp xe tăng luyện tập kỹ và quyết tâm bảo đảm tác chiến nhanh, chính xác. Lực lượng kỹ thuật tổ chức sấy máy bằng than củi, sấy máy bằng thủ công bảo đảm thông tin được thông suốt", Trung tướng Hưởng nhớ lại.
Tại vị trí tập kết, ông Hưởng sáng kiến gia cố thêm 10 viên đạn pháo cho mỗi xe tăng, nâng tổng số đạn từ 34 lên 54 viên, đồng thời bổ sung 10 viên cho mỗi xe thiết giáp K-63. Điều này giúp tăng khả năng tác chiến kéo dài và bắn không hạn chế vào các mục tiêu nghi ngờ có địch.

Trung tướng, Tiến sĩ, Anh hùng lực lượng vũ trang Đoàn Sinh Hưởng, nguyên Tư lệnh Quân khu 4 kể lại quá trình chuẩn bị cho trận đánh Buôn Ma Thuột.
Ngoài gia cố đạn, ông Hưởng đề nghị cấp thêm lựu đạn cho xe tăng, riêng xe ông được ưu tiên hai thùng và sử dụng hết trong sáng 10/3/1975 để diệt địch. Ngoài ra, với kinh nghiệm chiến đấu, ông đề xuất xuất phát sớm hơn lệnh 15 phút, từ 1h45 thay vì 2h sáng.
Cuộc tiến công Buôn Ma Thuột bắt đầu, khi pháo binh và đặc công đánh sân bay, kho Mai Hắc Đế, sân bay Hòa Bình, Đại đội 9 do ông chỉ huy gồm 10 xe T-54B, 10 xe K-63 tổ chức thành 4 thê đội. Ông chỉ huy thê đội 2 và chung cả đội hình, giữ bí mật đến phút chót, địch không hay biết.

Một mũi tiến quân của Quân giải phóng vào thị xã Buôn Ma Thuột.
Cuộc đột kích táo bạo
Theo lời kể của Trung tướng Hưởng, 5h30’ ngày 10/3/1975, khi pháo binh chuyển làn bắn, xe tăng và cơ giới ta mở tốc lực, húc đổ cây tiến thẳng vào thị xã.
Nhận thấy địch hoang mang cực độ, ông Hưởng lệnh bật đèn xe. Đại đội 9 làm theo, các đơn vị khác cũng bật đèn, biến núi rừng Tây Nguyên thành biển lửa, khích lệ quân ta, khiến địch khiếp đảm.

Lực lượng của ta tấn công Sở chỉ huy Sư bộ 23 của địch tại Buôn Ma Thuột.
Theo kế hoạch chiến đấu, thê đội 1 dẫn đầu đột phá vào cửa mở, để thê đội 2 do ông Hưởng chỉ huy thọc sâu vào Sở chỉ huy Sư đoàn 23 ngụy. Bị dồn vào chân tường, địch chống cự quyết liệt, khiến bộ đội ta thương vong khá nhiều.
"Hầu hết xe tăng của chúng tôi đều có người bị thương, xe tăng 980 do tôi chỉ huy bị trúng đạn. Trong giây phút đó, người lái xe bị gãy tay, tôi cho xe lùi lại, đưa đồng chí lái xe ra tuyến sau cấp cứu và điều người khác từ xe 703 lên thay. Từ 5h30’ đến 10h30’ ngày 10/3, chúng tôi quần nhau với địch", Trung tướng Hưởng kể lại.
Pháo phòng không 232 và 234 bảo vệ chặt đội hình tiến công. Tối 10/3, Đại đội 9 và bộ binh áp sát Sư đoàn bộ Sư đoàn 23 ngụy. Theo lệnh, đơn vị dừng củng cố, bổ sung đạn. Ông Hưởng cùng đồng đội trinh sát, chuẩn bị đánh sớm hôm sau.

Bộ đội ta vui mừng giương cao cờ Quyết thắng tại khu Mai Hắc Đế, kết thúc chiến dịch giải phóng Buôn Ma Thuột.
6h sáng 11/3, khi đơn vị sẵn sàng xuất kích, phát hiện xe địch, ông Hưởng lệnh nổ súng, bắn cháy 2 xe M-113 và M-41. Lợi dụng địch hoảng loạn, ông chỉ huy truy đuổi, bắt Tỉnh phó Đắk Lắk. Xe tăng ta tiếp tục đánh chiếm Sở Chỉ huy Sư đoàn 23, sào huyệt cuối cùng ở Buôn Ma Thuột.
Đến 10h, các hướng đồng loạt tấn công. 10h30’, xe tăng, bộ binh áp sát cột cờ, Đại đội 9 chốt giữ trận địa, hỗ trợ Tiểu đoàn 4 hạ cờ Sài Gòn, kéo cờ giải phóng trong niềm vui chiến thắng.

Trung tướng, Tiến sĩ, Anh hùng lực lượng vũ trang Đoàn Sinh Hưởng, nguyên Tư lệnh Quân khu 4 xúc động khi nhắc đến những hy sinh cao cả của các đồng đội trong Chiến dịch Tây Nguyên.
Nói đến đây, ông Hưởng nghẹn ngào: "Chiến tranh đã lùi xa, đồng đội thế hệ tôi người còn, người mất. Trên chính mảnh đất Tây Nguyên hùng vĩ này, biết bao đồng đội tôi đã không may nằm lại, linh hồn và thân thể các anh đã hòa vào đất đỏ Tây Nguyên để cây trái đơm hoa, xóm làng trù phú. Họ đã ngã xuống để đất nước ta ngày càng tươi đẹp, trường sinh".
Theo Đại tá, PGS, TS. Nguyễn Văn Sáu, Phó Viện trưởng Viện Lịch sử quân sự, nửa thế kỷ đã đi qua, nhưng Chiến thắng Buôn Ma Thuột vẫn mãi là chiến công quan trọng trong Chiến dịch Tây Nguyên nói riêng và trong Đại thắng mùa Xuân 1975 nói chung. Chiến thắng đó là đòn phủ đầu đối với chính quyền và quân đội ngụy Sài Gòn. Đồng thời, mở ra thời cơ chiến lược cho những thắng lợi cuối cùng trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc.
Những kinh nghiệm được đúc kết từ Chiến thắng Buôn Ma Thuột 50 năm về trước cần được chắt lọc, vận dụng sáng tạo trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc hôm nay và mai sau cũng như trong công cuộc xây dựng, phát triển một Tây Nguyên giàu mạnh.
Qua đó, góp phần xây dựng đất nước Việt Nam ngày càng cường thịnh - hiện thực hóa các mục tiêu trong kỷ nguyên xây dựng thành công nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, sánh vai với các cường quốc năm châu".
Phát biểu tại hội thảo, ông Nguyễn Đình Trung, Bí thư Tỉnh ủy Đắk Lắk nhấn mạnh, Chiến thắng Buôn Ma Thuột luôn là niềm tự hào của quân và dân các dân tộc của thành phố Buôn Ma Thuột, của tỉnh Đắk Lắk và của nhân dân các dân tộc Tây Nguyên cũng như của cả nước. Đây là nguồn động viên, khích lệ, nguồn cảm hứng trong giáo dục truyền thống cách mạng cho các thế hệ cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang và nhân dân tiếp tục chiến đấu quên mình vì độc lập, tự do của dân tộc, vì sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hôm nay.