Hơi thở của Tổ tiên trong từng nhịp sống
Chúng ta là tiếp nối của bao thế hệ đã đi qua, và một ngày nào đó, ta cũng sẽ trở thành tổ tiên của những người sau mình. Trong dòng sông bất tận của sự sống, không ai đi một mình.
Có những giọt nước mắt ta rơi vì thương nhớ, có những bàn tay ta trao vì cảm thông, tất cả đều là nhịp đập từ “tấm lòng của bà” ngày xưa. Hãy tập sống như một tổ tiên tốt lành ngay từ bây giờ, để khi trở về với dòng chảy ấy, ta có thể mỉm cười, vì đã để lại trong đời một chút thương yêu.
Người tu thiền thường hay nói nhiều về sự vĩ đại của chư Tổ. Trước đây, tôi vốn không mấy mặn mà với chuyện tôn kính tổ tiên. Dĩ nhiên, tôi yêu kính ông bà mình, nhưng không phải bởi vì họ là “tổ tiên” của tôi. Khi mới bước vào con đường tu học Phật pháp ở tuổi ba mươi, tôi cảm thấy khó chịu với việc nhấn mạnh vào cái gọi là “dòng truyền thừa”, chỉ là một danh sách dài dằng dặc những cái tên của các vị Tổ quá cố từ Ấn Độ, Trung Hoa cho đến Nhật Bản. Cách đây khoảng mười lăm năm, nhờ sự lên tiếng của những nữ hành giả và sự ủng hộ của các huynh đệ, chúng tôi bắt đầu tụng tên của các Tổ sư Ni bên cạnh chư Tổ Tăng trong các thời khóa lễ thiền như một bước ngoặt lịch sử. Nhưng những ngày đầu ấy, tôi chỉ thấy “dòng truyền thừa” như một đống bằng cấp cũ nát, giấy da đã ố vàng, chẳng hề liên quan gì đến tôi hay cuộc đời của tôi cả.
Thế nhưng bây giờ tôi lại nhận ra rằng: tổ tiên chính là mạch sống trong huyết quản tôi. Bởi chúng ta đều là sự tổng hòa từ những người đi trước, từ cha mẹ sinh ra ta, đến những người sinh ra cha mẹ, rồi nối dài qua muôn vàn thế hệ, ngược dòng mãi đến tổ tông. Có thể có những tổ tiên không tốt, nhưng ta cũng mang họ trong mình, dù có muốn hay không. Với những ai được nhận nuôi, có thể họ không biết tổ tiên huyết thống là ai, nhưng tổ tiên của ta đâu chỉ là máu mủ, mà còn là những người đã dưỡng dục, đã dạy ta cách qua đường và dạy ta cách buộc dây giày sao cho đúng.
Tôi có mặt hôm nay nhờ tất cả những người thầy của mình; cô giáo lớp một dạy tôi biết đọc, thầy dạy khoa học lớp sáu dạy tôi thang độ cứng từ thạch cao đến kim cương, và những thầy cô trung học, đại học đã khiến tôi say mê Shakespeare và George Eliot. Nghĩ cho cùng, Eliot và Shakespeare cũng chính là tổ tiên tôi, cũng như bao người đã trao truyền nền văn hóa bao bọc và dưỡng nuôi tâm thức tôi mà nhiều khi tôi chẳng hề hay biết. Tôi đang trò chuyện được với bạn là cũng nhờ vào những người đầu tiên biết dùng ngôn ngữ, tất cả hậu duệ của họ, những người đã truyền trao ngôn ngữ ấy đến tận tôi, ngôn ngữ giúp tôi phân biệt những gì mình thấy và nghe: tối, sáng, vuông, tròn, cứng hay mềm.
Tôi muốn cúi đầu trước những con người đã bị cướp mất quyền được biết tổ tiên huyết thống của mình bởi nạn nô lệ, diệt chủng, chiến tranh, lưu đày. Cũng có những người bị tước đoạt cả tổ tiên văn hóa và tâm linh, khi quá khứ đã bị xé khỏi cuộc đời họ. Có những người may mắn vẫn còn có cơ hội để tôn kính và nhận sự chỉ dẫn từ tổ tiên cây, tổ tiên biển, tổ tiên núi, tổ tiên sao trời.
Khi Florence Caplow và tôi cùng biên soạn một cuốn sách về các bậc nữ trí tuệ trong Phật giáo, tôi đã đem lòng kính phục tất cả những nhân vật được đưa vào sách, đặc biệt là Satsujo, một hành giả thiền thuần thành sống ở Nhật Bản thế kỷ XVIII. Ban đầu tôi bị bà thu hút bởi vì cũng giống như tôi, bà là một người bà.
Nghiên cứu về Satsujo và cảm thấy sự nối kết với bà, tôi phát hiện ra một điều lớn lao về khái niệm tổ tiên: ta hoàn toàn có thể nhận bất kỳ ai làm tổ tiên của mình. Cha mẹ, ông bà huyết thống thì ta không được chọn, nhưng khi “nhận tổ tiên”, ta có thể mời những người ta ngưỡng mộ, những người thầy, nhân vật lịch sử, văn sĩ, nghệ sĩ đã ảnh hưởng và khích lệ ta, để họ trở thành tổ tiên của ta. Họ chắc chắn sẽ chẳng bao giờ từ chối. Tôi đã nhận Satsujo làm “bà ngoại thứ ba”, và mang theo bà suốt hành trình đời mình. Càng lớn tuổi, tôi càng thấy đồng điệu với bà, bà vừa là tổ tiên, vừa là bạn tôi. Muốn hiểu bà nhiều hơn như khi kết thân với một người nào đó nên tôi đã tìm học những gì ít ỏi còn sót lại về cuộc đời bà.
Cha mẹ, ông bà huyết thống thì ta không được chọn, nhưng khi “nhận tổ tiên”, ta có thể mời những người ta ngưỡng mộ, những người thầy, nhân vật lịch sử, văn sĩ, nghệ sĩ đã ảnh hưởng và khích lệ ta, để họ trở thành tổ tiên của ta. Họ chắc chắn sẽ chẳng bao giờ từ chối.
Cha của Satsujo từng học thiền với Đại sư Rinzai Hakuin, và ngay từ nhỏ bà đã theo cha đến gặp Hakuin. Nhờ vậy, bà đã trở thành một người học Pháp chân thành từ thuở bé và theo học với Hakuin suốt đời. Bà là một phụ nữ tại gia, là vợ, là mẹ, là bà, và bà dạy thiền một cách không chính thức. Hakuin nổi tiếng nhân hậu, khích lệ người trong thôn, kể cả phụ nữ, dù xã hội Nhật Bản khi ấy đầy rẫy nam quyền. Ông rất quý Satsujo, dù bà là phụ nữ, và cũng là cư sĩ. Có vài câu chuyện về Satsujo được lưu truyền và đây là chuyện mà tôi thích nhất (trích từ Ngọn đèn ẩn):
Khi tuổi đã cao, Satsujo mất đi đứa cháu gái, nỗi đau khiến bà khóc rất nhiều. Một ông lão trong làng đến trách móc:
“Sao bà khóc nhiều dữ vậy? Người ta mà biết được sẽ bảo: ‘Bà lão này từng học với Hakuin, từng ngộ đạo, sao giờ lại bi lụy vì cháu gái thế?’, bà nên kiềm chế lại chứ”.
Satsujo trừng mắt nhìn ông lão và mắng thẳng:
“Ông biết gì chứ? Nước mắt và tiếng khóc của tôi còn quý cho cháu tôi hơn cả hương, hoa, hay đèn đuốc!”.
Nghe vậy, ông lão câm lặng bỏ đi.
Là một người mẹ, một người bà, tôi chẳng tưởng tượng nổi nỗi đau nào lớn hơn việc mất đứa cháu bé bỏng. Nó đi ngược với lẽ tự nhiên. Một người bà phải ra đi trước cháu mình hàng chục năm, ai làm bà đều biết vậy. Nhưng tôi tin rằng, ngay cả những ai không có con cháu cũng có thể hình dung được nỗi đau này. Câu chuyện này là dành cho tất cả mọi người.
Ông lão ấy nghĩ rằng nếu bà thật sự ngộ đạo thì đã không khóc cho cháu mình. Điều đó chẳng khác nào nói rằng nếu giác ngộ thì không còn là con người nữa. Satsujo không quay lưng với cảm xúc của con người. Nước mắt thật quý giá khi nối kết ta với những người mình thương, dù còn sống hay đã mất. Satsujo cho tôi thấy rằng một hành giả thiền ngộ đạo và một bà lão đau lòng mất cháu cũng có thể là cùng một người. Chỉ có dòng sông mặn của nỗi đau chảy thẳng vào đứa cháu bà, bất kể bé ấy có ở bất kỳ đâu.
Satsujo hiểu rằng bà cũng cần được khóc thương cho những đứa cháu của mình. Nếu không có điều đó, thế giới này sẽ trở nên thế nào? Khi trái tim tan vỡ, con người ta cần được khóc. Khi tôi gần gũi với Satsujo, tôi có cơ hội học được ở bà sự can đảm, dí dỏm và niềm tin vào chính mình. Bà dạy tôi đừng ép mình sống theo những khuôn mẫu về việc tôi phải là ai hay phải cư xử ra sao. Bà khuyến khích tôi khóc, khóc vì tình thương.
Thiền sư Đạo Nguyên, ở Nhật Bản thế kỷ XIII, từng có một học trò trẻ tên là Tetsu, rất siêng năng tu học. Tetsu ngồi thiền giỏi, hành xử mẫu mực, tụng kinh trôi chảy, và làm tròn mọi việc được giao. Nhưng Tetsu lại thiếu từ tâm. Trước khi thị tịch, Đạo Nguyên đã dặn Tetsu: “Con có thể hiểu trọn Phật pháp, nhưng con sẽ không thể vượt thoát khỏi tài năng và trí thông minh của mình, nếu con không có robai-shin - tâm của người bà hiền từ, tức là tâm đại bi.”
Cụm từ robai-shin của ngài Đạo Nguyên được dịch theo nhiều cách: “tâm của người bà hiền”, “tâm cha mẹ”, “tâm nhân từ”, hay “tâm từ bi”. Ngài dạy rằng Tăng sĩ nên nuôi dưỡng tinh thần của cha mẹ, ông bà, những người “dù bản thân nóng hay lạnh, cũng vẫn dang tay che chở, bao bọc cho những đứa trẻ”.
Nếu một vị Tăng trẻ có thể phát triển “tâm của người bà hiền”, thì bất cứ ai thì dù tuổi tác, giới tính, hay địa vị xã hội nào cũng có thể làm được những hành động yêu thương. Ta không cần phải làm bà mới có thể nhường áo cho người đang run lạnh. “Tâm của người bà hiền” chỉ là một hình ảnh biểu trưng…
Cũng thế, nếu bạn thăm một người bạn trong tù, phải ngồi hai bên tấm kính chống đạn, phải gào lên mới nghe được, thì robai-shin vẫn tìm cách xuyên qua lớp kính ấy. Hoặc khi bạn đến thăm mẹ trong phòng hồi sức, bà đang phải thở máy, không thể trò chuyện, thì cứ tin vào ý nguyện yêu thương của mình, rồi bạn sẽ tự tìm ra những cách biểu đạt khác, như xoa chân cho bà, hay hát cho bà nghe những bài hát mà bà từng thích. Robai-shin là tâm đại bi, và nó tồn tại trong tất cả chúng ta.
Một mặt khác của việc tôn kính tổ tiên là nhớ rằng chính ta cũng sẽ trở thành tổ tiên, dù ta có muốn hay không. Một trong những tác phẩm về thiền mà tôi ưa thích là Lời nguyện của Đạo Nguyên (Eihei Kōsō Hotsuganmon). Trong đó, ngài tạ ơn chư Tổ đã dày công che chở, và khẳng định rằng chúng ta rồi cũng sẽ thành Phật, thành Tổ:
“Chư Phật, chư Tổ thuở xưa cũng từng như chúng ta hôm nay; và rồi mai sau, chúng ta cũng sẽ là chư Phật, chư Tổ. Người chưa giác ngộ trong đời trước, nay có thể giác ngộ. Trong kiếp này, hãy trân trọng và cứu lấy thân này – bởi nó là kết tinh của muôn đời. Trước khi thành Phật, các Ngài cũng từng là phàm nhân. Người đạt giác ngộ hôm nay, cũng chính là người của muôn kiếp trước”.
Chúng ta tất yếu sẽ là tổ tiên của những người đi sau, dù ta có con cháu hay không. Điều ấy chẳng phải đáng an ủi lắm sao? Các bậc Thánh hiền xưa kia cũng là con người như ta, cũng từng có những cảm xúc và khuyết điểm. Họ từng bướng bỉnh, từng hống hách, từng sợ hãi. Họ từng để cơm khê, làm nến chảy trên kinh sách. Có người còn lén ra khỏi chùa nửa đêm để nghịch ngợm. Tôi cũng từng làm vài việc như thế, và Đạo Nguyên nói rằng dẫu vậy, tôi vẫn sẽ là một vị Tổ giác ngộ trong tương lai.
Thế nên, để không phí uổng bao nhiêu đời đã dâng hiến thân mạng này, tôi chăm sóc thân mạng ở hiện tại, và khi đang sống, tôi cố gắng có mặt trọn vẹn. Tôi tập nuôi dưỡng tâm đại bi. Tôi tập phát triển tâm của của một người bà hiền từ. Khi chơi với cháu, tôi cố gắng không lặp lại những lỗi lầm đã mắc khi nuôi con. Với cháu, dễ dàng hơn nhiều để nghĩ: “Mọi thứ đều ổn thôi!”. Tôi cố gắng trở thành một tổ tiên tốt. Tôi tự nhủ: Satsujo đã từng như ta. Một ngày nào đó, ta sẽ là Satsujo.
Khi tôi nói “Tương lai tôi sẽ là Satsujo”, thì ý tôi là: tôi cũng như bao người cùng thế hệ, rồi sẽ trở thành tổ tiên của những người đến sau, không chỉ của con cháu máu mủ hay những người quen biết tôi. Và rồi họ cũng sẽ trở thành tổ tiên của lớp người sau nữa. Tôi không nói rằng sẽ có sách thiền nào ghi chép về riêng tôi, hay cháu tôi sẽ kể chuyện về tôi cho đời cháu chúng, mặc dù, nếu ở đâu đó tôi nghe được, hẳn tôi sẽ rất cảm động. Tôi chỉ muốn nói: thời gian sẽ đưa tôi vượt khỏi cái tôi cá nhân, để nhập dòng sông của chư Phật, dòng chảy bất tận của Chánh pháp.
Vì chúng ta, dẫu muốn hay không, cũng sẽ thành tổ tiên sau khi chết, thì chi bằng ngay bây giờ ta hãy thực tập bằng cách thương yêu mọi người mình gặp, với tâm của một người bà hiền hậu, dù ta chưa phải là một người bà, và dù người kia không phải là trẻ thơ.
Suson Moon
Phổ Tịnh lược dịch, theo lionsroar.com