'Hồi sinh' các Quỹ hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa
Khả năng tiếp cận vốn của các doanh nghiệp nhỏ và vừa vẫn là vấn đề nan giải, dù đã có nhiều chính sách hỗ trợ từ Nhà nước và các tổ chức tín dụng. Nhiều doanh nghiệp vẫn gặp trở ngại do thiếu tài sản thế chấp, năng lực tài chính còn yếu và quy trình thẩm định phức tạp. Đây là vướng mắc kéo dài, đòi hỏi phải có giải pháp đồng bộ và thực chất hơn.
Các kênh cung ứng tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa hiện nay gồm có: Ngân hàng, Quỹ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, Quỹ bảo lãnh tín dụng địa phương. Tuy nhiên các Quỹ này hoạt động rất khiêm tốn, hầu như không hỗ trợ được vốn cho doanh nghiệp nhỏ và vừa. .
Số lượng Quỹ bảo lãnh tín dụng bị giảm dần
Từ năm 2018 đến nay, số lượng Quỹ bảo lãnh tín dụng có xu hướng giảm – từ 28 quỹ xuống còn 24 quỹ vào năm 2022. Thực tế cho thấy, một số địa phương không mặn mà với việc thực hiện quyền và trách nhiệm trong phát triển, duy trì hoạt động của quỹ, vì vậy có những địa phương sau khi thành lập quỹ một thời gian đã giải thể, do hoạt động không hiệu quả.
Hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng được quy định tại Nghị định số 34/2018 của Chính phủ (về việc thành lập, tổ chức và hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa). Theo đó, một trong những biện pháp bảo đảm cho hoạt động bảo lãnh vay vốn đó là doanh nghiệp phải có tài sản thế chấp (Điều 25 của Nghị định), trường hợp được miễn tài sản bảo đảm (bảo lãnh tín chấp), Chủ tịch Quỹ hoặc Hội đồng cấp tín dụng sẽ chịu trách nhiệm thực hiện và bảo toàn vốn, cũng như các nguyên tắc về quản lý tài chính. Quy định này dẫn đến tâm lý e ngại khi thực hiện bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa. Vì vậy, hầu như các doanh nghiệp không thể tiếp cận được nguồn vốn hỗ trợ từ Quỹ này.

Nhiều doanh nghiệp nhỏ và vừa thiếu tài sản bảo đảm nên khó tiếp cận nguồn vốn ngân hàng
Đối với Quỹ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, tính đến cuối năm 2024, tỷ lệ giải ngân chỉ đạt khoảng 30-35% trên tổng số vốn được cấp, việc này phản ánh sự bất cập trong mô hình vận hành Quỹ cũng như sự phối hợp trong thực hiện chính sách.
Ông Nguyễn Văn Thân, Chủ tịch Hiệp hội doanh nghiệp nhỏ và vừa chia sẻ, các doanh nghiệp nhỏ và vừa không có tài sản bảo đảm, không tiếp cận được vốn tín dụng của ngân hàng nên quay sang quỹ bảo lãnh tín dụng. Đến đây, các quỹ lại yêu cầu doanh nghiệp phải có tài sản bảo đảm, điều này đẩy các doanh nghiệp vào thế khó.
“Nếu tiếp tục giữ nguyên các quy định, tiêu chuẩn được vay, thì các Quỹ hỗ trợ, bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp đều không thể cho doanh nghiệp nhỏ và vừa vay. Chúng ta muốn mở rộng cho họ vay thì nhất định phải có cơ chế thông thoáng hơn thì các Quỹ mới cho vay được ”, ông Thân nhấn mạnh.
Còn đối với các tổ chức tín dụng, ngày càng đẩy mạnh áp dụng chuẩn mực quản trị rủi ro theo thông lệ quốc tế, đòi hỏi cao về tính minh bạch thông tin, tài chính, tài sản bảo đảm, do đó không thể “hạ chuẩn” điều kiện khi cung ứng tín dụng. Trong khi đó, nhiều doanh nghiệp nhỏ và vừa thường hạn chế minh bạch về thông tin tài chính, quản trị, thiếu tài sản thế chấp, thiếu phương án kinh doanh khả thi. Đây là nút thắt lớn trong quá trình tiếp cận vốn vay của doanh nghiệp.
Hình thành Quỹ bảo lãnh doanh nghiệp nhỏ và vừa Quốc gia
Các chuyên gia nhận định, ngân hàng thương mại rất thận trọng trong việc xét duyệt khoản vay, họ thường tập trung tìm kiếm những doanh nghiệp có tiềm lực tốt, khả năng hấp thụ vốn cao, quản lý tài chính minh bạch và thường yêu cầu có tài sản thế chấp để bảo đảm rủi ro. Khi có tài sản bảo đảm, doanh nghiệp dễ dàng tiếp cận được với các khoản vay hơn.
Thống kê cho thấy, có đến gần 70% doanh nghiệp nhỏ và vừa gặp khó khăn khi tiếp cận vốn ngân hàng, do thiếu tài sản bảo đảm, báo cáo tài chính chưa minh bạch hoặc xếp hạng tín nhiệm thấp. Nếu tiếp cận được (tức là có tài sản bảo đảm), thì mức lãi suất của ngân hàng sẽ dao động từ 9-11%/năm (có thể cao hơn tùy thời điểm) - cao hơn nhiều so với các nước ASEAN, trong khi đó thời gian cho vay lại ngắn, điều này khiến chi phí sản xuất, kinh doanh tăng thêm gánh nặng cho doanh nghiệp.

Nghị quyết số 68 về phát triển kinh tế tư nhân đề ra nhiệm vụ hoàn thiện mô hình các Quỹ bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp vừa và nhỏ ở cả trung ương và địa phương. Hoàn thiện khung pháp lý, cơ chế hoạt động của Quỹ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa theo hướng mở rộng đối tượng, đơn giản hóa điều kiện, quy trình, thủ tục cho vay và giải ngân vốn. Đây sẽ là giải pháp căn cơ nhằm giảm bớt gánh nặng cho ngân hàng và tạo cơ hội tiếp cận vốn cho doanh nghiệp tư nhân có tiềm năng nhưng thiếu tài sản thế chấp.
Ông Phạm Xuân Hòe, Nguyên phó Viện trưởng Viện Chiến lược, Ngân hàng Nhà nước cho rằng, cần hợp nhất các Quỹ bảo lãnh tín dụng địa phương và Quỹ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa lại thành Quỹ bảo lãnh doanh nghiệp nhỏ và vừa Quốc gia, dựa trên các nguyên tắc: Thứ nhất, bảo lãnh tín chấp – tức là không đòi hỏi bảo lãnh phải có tài sản thế chấp. Thứ hai, bảo lãnh không hủy ngang, bảo lãnh vô điều kiện.
Thứ ba, khi bảo lãnh tín dụng cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa thì phải chấp nhận rủi ro (có kiểm soát), có trích lập dự phòng rủi ro. Nếu vẫn giữ quan điểm bảo toàn vốn như hiện nay và yêu cầu Chủ tịch Quỹ hoặc Giám đốc Quỹ cho doanh nghiệp vay thì sẽ không ai dám cho vay vì họ lo ngại trách nhiệm pháp lý (bao gồm cả trách nhiệm hình sự). Thứ tư, chúng ta cần học hai bài học lớn từ Hàn Quốc và Đài Loan đó là khi bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa, có bảo hiểm tín dụng đi kèm – tức là sẽ trích một phần từ khoản vay để bảo hiểm cho khoản vay của người vay, để phòng khi rủi ro sẽ có khoản bảo hiểm đó trang trải cho khoản nợ.
Ông Hòe cũng nhấn mạnh rằng, hàng năm Trung ương và địa phương nên trích một phần từ nguồn ngân sách để đóng góp vào quỹ này nhằm gia tăng nguồn lực. Chúng ta hãy nhìn vào vai trò của kinh tế tư nhân, họ đóng góp trên 50% GDP, giải quyết trên 80% việc làm cho người lao động, đóng góp 33% vào Ngân sách Nhà nước, vì vậy họ cần được hỗ trợ một cách tốt nhất từ Nhà nước và địa phương.
“Một vấn đề nữa phải giải quyết, đó là cần có một Nghị định mới quy định hoạt động cho Quỹ bảo lãnh; có sự phối kết hợp với Hiệp hội, ngành nghề, cơ quan thuế để chấm điểm tín dụng các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Nhà nước có thể hỗ trợ các chi phí về kiểm toán cho doanh nghiệp, để họ có thể minh bạch hóa báo cáo tài chính - tạo thuận lợi cho việc chấm điểm xếp hạng tín nhiệm cao, tăng khả năng tiếp cận vốn. Bản thân ngân hàng thương mại khi tiếp cận với doanh nghiệp nhỏ và vừa, họ rất cần doanh nghiệp có sự minh bạch về tài chính, kế toán, kiểm toán vì không ai muốn hoạt động trong một thị trường tù mù, nếu tù mù thì không ai dám làm gì hết vì người ta luôn luôn sợ rủi ro. Một khi mọi hoạt động và nguyên tắc được rõ ràng như vậy thì Quỹ này chắc chắn sẽ hỗ trợ một cách tốt nhất cho doanh nghiệp”, ông Hòe cho hay.































