Hội nhập quốc tế về sở hữu trí tuệ đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước

Sở hữu trí tuệ là lĩnh vực được Việt Nam quan tâm ngay từ rất sớm. Việt Nam đã gia nhập 2 điều ước quốc tế quan trọng liên quan đến bảo hộ nhãn hiệu từ ngày 8/3/1949 là Công ước Paris năm 1883 về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp và Thỏa ước Madrid 1891 về đăng ký quốc tế nhãn hiệu.

Nấm Tam Đảo được UBND tỉnh công nhận là sản phẩm quà tặng du lịch Vĩnh Phúc và Cục Sở hữu trí tuệ, Bộ Khoa học và Công nghệ cấp chứng nhận độc quyền chỉ dẫn địa lý đối với khu vực nuôi trồng đông trùng hạ thảo tại Tam Đảo. Ảnh: Hoàng Hùng/TTXVN

Nấm Tam Đảo được UBND tỉnh công nhận là sản phẩm quà tặng du lịch Vĩnh Phúc và Cục Sở hữu trí tuệ, Bộ Khoa học và Công nghệ cấp chứng nhận độc quyền chỉ dẫn địa lý đối với khu vực nuôi trồng đông trùng hạ thảo tại Tam Đảo. Ảnh: Hoàng Hùng/TTXVN

Kỷ niệm 80 năm Cách mạng tháng Tám (19/8/1945 - 19/8/2025) và Quốc khánh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2/9/1945 - 2/9/2025), lĩnh vực sở hữu trí tuệ đã khẳng định tầm quan trọng khi Việt Nam hội nhập sâu rộng vào thế giới, cũng như sự đồng hành và phát triển suốt chiều dài lịch sử đất nước.

Tham gia các điều ước quốc tế từ thuở “sơ khai”

Công ước Paris 1883 là một trong những công ước quan trọng nhất về sở hữu công nghiệp được kí kết sớm nhất. Công ước là nền tảng cho sự ra đời của các điều ước quốc tế điều chỉnh việc bảo hộ tương tự hay riêng biệt như Thỏa ước Madrid về đăng kí nhãn hiệu hàng hóa, Công ước Lahay về đăng kí kiểu dáng công nghiệp… Công ước Paris là một trong những điều ước quốc tế được áp dụng rộng rãi nhất trên thế giới và Việt Nam đã tham gia công ước từ ngày 8/3/1949.

Sau năm 1954, về sở hữu công nghiệp trong đó có nhãn hiệu được Việt Nam bảo hộ tại Luật số 13/57 ngày 1/8/1957 và Luật số 14/59 ngày 11/09/1959 về chống sản xuất hàng giả nhưng do hoàn cảnh thực tế đất nước mà các Luật chưa được thực thi đầy đủ. Sau khi thống nhất đất nước năm 1975, Việt Nam tiếp tục kế thừa các điều ước quốc tế trước đó và chính thức tham gia Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) ngày 2/6/1976. WIPO đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy sự sáng tạo và đổi mới trên toàn cầu thông qua việc bảo vệ và quản lý quyền sở hữu trí tuệ.

Ông Trần Lê Hồng, Phó Cục trưởng Cục Sở hữu trí tuệ (Bộ Khoa học và Công nghệ) cho biết: Trong các Điều ước quốc tế về sở hữu trí tuệ do WIPO quản lý, đến nay Việt Nam đã tham gia “Hiệp định hợp tác bằng sáng chế”; “Công ước Paris về bảo hộ sở hữu công nghiệp”; “Thỏa ước và Nghị định thư Madrid về đăng ký quốc tế nhãn hiệu hàng hóa”; “Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở hữu trí tuệ (TRIPS)”; “Công ước Berne về bảo hộ tác phẩm văn học và nghệ thuật”; “Công ước Geneva về bảo hộ người ghi âm, chống sao chép trái phép bản ghi âm”; “Công ước Brusels về phân phối tín hiệu mang chương trình truyền qua vệ tinh”; “Công ước Rome về bảo hộ người biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi âm và tổ chức phát sóng”; “Công ước quốc tế về bảo hộ giống cây trồng mới”.

Với việc là thành viên của WIPO, hàng năm Việt Nam được cung cấp trang thiết bị và tài liệu liên quan đến sở hữu trí tuệ phục vụ nhu cầu chuyển đơn đăng ký quốc tế qua internet cho Văn phòng quốc tế của WIPO, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp và cá nhân Việt Nam đăng ký quốc tế nhãn hiệu ra nước ngoài cũng như người nước ngoài đăng ký vào Việt Nam.

Ngoài ra, Việt nam cũng thúc đẩy hợp tác với các nước như Mỹ, Nhật, Thụy Sỹ, Pháp, Hàn Quốc, Thái Lan, Australia… Việc Việt Nam quan hệ hợp tác với WIPO và các đối tác đã giúp Việt Nam bước đầu đáp ứng yêu cầu về sở hữu công nghiệp trong hội nhập kinh tế, khẳng định vị thế của Việt Nam trong các diễn đàn hợp tác đa phương và các mối quan hệ song phương.

Năm 1993, Việt Nam chính thức tham gia Hiệp ước hợp tác về sáng chế (PCT), năm 1994, ký kết bản ghi nhớ hợp tác song phương trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp giữa Việt Nam và Thái Lan. Năm 1995, ký kết Bản ghi nhớ về hợp tác sở hữu trí tuệ giữa Việt Nam và Australia. Năm 1999, ký kết Hiệp định về sở hữu trí tuệ và hợp tác trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ giữa Việt Nam và Thụy Sỹ, cũng trong năm 1999, ký kết Thỏa thuận triển khai Dự án hiện đại hóa quản trị sở hữu công nghiệp (MOIPA) với Nhật Bản, dự án góp phần quan trọng trong xử lý đơn đăng ký sở hữu công nghiệp, tự động hóa các thao tác nghiệp vụ trong tiến trình xử lý đơn. Đặc biệt, năm 2000, Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ được ký kết đã có 1 chương về sở hữu trí tuệ.

Sản phẩm Mật ong sú vẹt Kim Sơn (Ninh Bình) đã đăng ký bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ. Ảnh: TTXVN phát

Sản phẩm Mật ong sú vẹt Kim Sơn (Ninh Bình) đã đăng ký bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ. Ảnh: TTXVN phát

Sở hữu trí tuệ đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước

Từ năm 1982 khi Cục Sáng chế, tiền thân của Cục Sở hữu trí tuệ ngày nay được thành lập, công tác quản lý nhà nước về sở hữu trí tuệ được chú trọng hơn với việc ban hành Nghị định số 197/HĐBT về Điều lệ Nhãn hiệu hàng hóa ngày 14/12/1982, Nghị định nhằm bảo hộ pháp lý các nhãn hiệu hàng hóa, bảo vệ quyền lợi chính dáng của người tiêu dùng và của các cơ sở sản xuất, kinh doanh. Cùng với đó là hàng loạt các Thông tư liên Bộ số 892/TT/LB ngày 4/8/1982, Thông tư liên Bộ số 1608/NN-UBKHKTNN ngày 23/12/1982, Thông tư số 1258/SC ngày 18/10/1983, Thông tư liên Bộ số 173/SC ngày 15/2/1984. Tiếp đó là các Nghị định số 85/HĐBT ngày 13/5/1988 về bảo hộ kiểu dáng công nghiệp, Nghị định số 200-HĐBT ngày 28/12/1988 về bảo hộ giải pháp hữu ích, Nghị định số 201-HĐBT về li-xăng sở hữu công nghiệp đã tạo hành lang pháp lý trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ.

Theo đó, công tác tiếp nhận và xử lý đơn đăng ký sở hữu công nghiệp đã đạt kết quả khi ngay năm 1984 đã có 9 Bằng độc quyền sáng chế và 12 Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu đầu tiên được cấp. Đặc biệt, thông qua Văn phòng quốc tế của Thỏa ước Madrid, riêng năm 1983 đã chấp nhận cho đăng ký vào Việt Nam 2.972 nhãn hiệu quốc tế.

Năm 1995, Bộ Luật Dân sự được Quốc hội khóa IX thông qua, có quy định về quyền sở hữu trí tuệ, đây là cơ sở pháp lý cao nhất và đầy đủ nhất để triển khai toàn diện hoạt động sở hữu trí tuệ, tạo ra bước ngoặt quan trọng trong lịch sử bảo hộ quyền hữu công nghiệp ở Việt Nam, cùng với đó hoạt động sở hữu công nghiệp chuyển sang giai đoạn hội nhập mạnh mẽ với thế giới và khu vực.

Hội nhập quốc tế về sở hữu trí tuệ đến năm 2002 đã ghi nhận sự tăng trưởng vượt bậc trong công tác xác lập quyền sở hữu công nghiệp khi năm 1992 có 83 đơn đăng ký sáng chế được nộp và 35 Bằng độc quyền sáng chế được cấp, thì năm 2002 có tới 1.211 đơn sáng chế được nộp và 743 Bằng độc quyền sáng chế được cấp. Tương tự đối với nhãn hiệu, năm 1992 có 4.617 đơn đăng ký nhãn hiệu được nộp và 3.308 Giấy chứng nhận nhãn hiệu được cấp thì năm 2002 con số này đã là 8.818 đơn nhãn hiệu được nộp và 5.200 Giấy chứng nhận nhãn hiệu được cấp.

Trước những cơ hội và thách thức trong hội nhập kinh tế và hiện đại hóa đất nước, vấn đề bảo hộ sở hữu trí tuệ trở thành yếu tố quan trọng trong sự phát triển đất nước, hệ thống pháp luật về sở hữu trí tuệ phải đáp ứng được những đòi hỏi của thực tiễn đất nước, vì vậy, năm 2005, Quốc hội khóa XI, kỳ họp thứ 8 đã thông qua Luật Sở hữu trí tuệ, đánh dấu giai đoạn mới trong hoạt động sở hữu trí tuệ của Việt Nam. Cùng với Bộ Luật Dân sự năm 2005, hai văn bản này đã tạo thành một hệ thống các quy định hoàn chỉnh và thống nhất về quyền sở hữu trí tuệ, thay thế cho các quy định trước đây. Sự kiện này có ý nghĩa to lớn đối với quá trình gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO) năm 2007 cũng như quá trình hội nhập quốc tế của Việt Nam, góp phần thúc đẩy hơn nữa các hoạt động sáng tạo và phát triển môi trường cạnh tranh lành mạnh.

Công tác xác lập quyền trong giai đoạn này tiếp tục có những bước tiến đáng ghi nhận. Số lượng đơn đăng ký xác lập quyền liên tục gia tăng. Năm 2003, số lượng đơn đăng ký sáng chế là 774 đơn, số lượng đơn đăng ký giải pháp hữu ích là 127 đơn, số lượng đơn đăng ký kiểu dáng công nghiệp là 680 đơn, số lượng đơn đăng ký nhãn hiệu là 12.135 đơn. Đến năm 2016, con số này đã là 5.228 đơn sáng chế, 478 đơn giải pháp hữu ích, 2.868 đơn kiểu dáng công nghiệp và 42.848 đơn nhãn hiệu. Năm 2024 là năm rất đặc biệt khi Cục Cục Sở hữu trí tuệ lần đầu tiên tiếp nhận trên 150.000 đơn và xử lý trên 140.000 đơn các loại, cùng với đó Cục cấp được trên 50.000 văn bằng bảo hộ sở hữu công nghiệp các loại. Đặc biệt, Cục Sở hữu trí tuệ cấp 51.437 văn bằng bảo hộ sở hữu công nghiệp các loại, điều này khẳng định vai trò quan trọng của hoạt động sở hữu trí tuệ trong phát triển kinh tế - xã hội, khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo của Việt Nam.

Ông Lưu Hoàng Long, Cục trưởng Cục Sở hữu trí tuệ (Bộ Khoa học và Công nghệ) cho biết: triển khai Nghị quyết số 57-NQ/TW về phát triển đột phá khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, năm 2025, Cục Sở hữu trí tuệ sẽ từng bước thực hiện chuyển đổi số toàn diện để nâng cao năng suất lao động, giảm tải công việc. Cục sẽ thay đổi quy trình làm việc cho phù hợp với môi trường số để nâng cao năng suất, hiệu quả công việc. Đồng thời, Cục sẽ áp dụng thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, đặt mục tiêu số lượng đơn đăng ký sáng chế, văn bằng bảo hộ sáng chế tăng trung bình 16-18%/năm, tỉ lệ khai thác thương mại đạt 8 - 10%. Đặc biệt, Cục sẽ quyết liệt giải quyết các đơn đăng ký văn bằng sáng chế, đơn sở hữu công nghiệp tồn đọng từ nhiều năm qua, trong đó phấn đấu xử lý dứt điểm tình trạng tồn đọng đơn sở hữu công nghiệp trước tháng 10/2025. Ngoài ra, Cục cũng tuyên truyền, nâng cao nhận thức của xã hội về sở hữu trí tuệ; hỗ trợ phát triển tài sản trí tuệ; triển khai Hệ thống nộp đơn trực tuyến, góp phần đơn giản hóa thủ tục hành chính và từng bước minh bạch hóa công tác xử lý đơn…

Cùng với sự phát triển của đất nước, sở hữu trí tuệ đã đóng góp một phần không nhỏ trong sự phát triển, là động lực cho đổi mới sáng tạo, góp phần phát triển kinh tế - xã hội trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

HL (TTXVN)

Nguồn Tin Tức TTXVN: https://baotintuc.vn/kinh-te/hoi-nhap-quoc-te-ve-so-huu-tri-tue-dap-ung-yeu-cau-phat-trien-dat-nuoc-20250820130152715.htm
Zalo