Học nghề qua những bức thư
Tôi luôn trân quý và gìn giữ những bức thư do các nhà văn, nhà thơ bậc đàn chú, đàn anh gửi cho mình từ lúc tập tành bước chân vào con đường viết lách một cách có ý thức. Gọi đây là 'cẩm nang học nghề' cũng không có gì khiên cưỡng và quá đáng.
Xin bắt đầu từ bức thư của nhà thơ Nguyễn Xuân Sanh (1920 - 2020) đề ngày 4/8/1978, đến nay (2025) đã 47 năm, tròm trèm nửa thế kỷ. Đây là bức thư đầu tiên tôi nhận được từ miền Bắc chỉ sau 3 năm tính từ khi đất nước thống nhất. Nhớ lại, lúc bấy giờ, tôi vừa mới 17, 18 tuổi và còn đang công tác ở lĩnh vực văn hóa thông tin cơ sở. Tập thơ non nớt, viết tay và chắc chắn là còn rất ngô nghê gửi đến ông hồi ấy, đến nay, trí nhớ của tôi chỉ còn lưu giữ được mỗi bài thơ lục bát 4 câu, có tên là “Hoa súng”, nguyên văn như sau:
HOA SÚNG
Hoa súng mà anh cứ ngỡ là sen
Tên nghe rất quen mà bây giờ mới gặp
Cánh hoa trắng đội bùn vươn lên thẳng tắp
Nhìn suốt mặt hồ tràn ngập lá - và - hoa.
Trong bức thư này, nhà thơ Nguyễn Xuân Sanh có viết: “... Những ngày tôi còn tuổi của Vinh cũng say mê thơ lắm và say mê tìm tòi. Lao động thơ của chúng ta tuy nó bay bổng như vậy nhưng vì là nghệ thuật và cuộc sống quyện lại với nhau nên nó công phu. Ta tập cho ta một tính công phu chuẩn bị ngay từ đầu, ta mới đánh giá đúng được lòng ta và đánh giá đúng được những cái mà cách mạng cho ta. Niềm tin và niềm vui của chúng ta trong sáng tạo mới vững…”. Mãi đến sau này, khi có điều kiện tìm hiểu kỹ về ông, tôi càng thêm cảm phục và nể trọng. Ông sinh năm 1920 tại Đà Lạt (quê gốc Quảng Bình), 12 tuổi đã có thơ đăng báo; 14 tuổi đã có truyện ngắn in trên Văn học tạp chí của cụ Dương Quảng Hàm; 16 tuổi đã có trường ca Lạc loài, đăng liên tiếp trên 12 số Hà Nội báo của Lưu Trọng Lư, Vũ Trọng Phụng, Lê Tràng Kiều. Đến năm 1939, ông đã cùng Đoàn Phú Tứ, Phạm Văn Hạnh, Nguyễn Lương Ngọc, Nguyễn Đỗ Cung, Nguyễn Xuân Khoát thành lập nhóm Xuân Thu nhã tập. Từ điển Văn học (bộ mới, xuất bản năm 2004) đánh giá: “Xuân Thu nhã tập là cuộc cách tân cuối cùng và táo bạo nhất của phong trào Thơ mới, giai đoạn 1932 - 1945, đặc biệt về hình thức câu thơ ”.

Những bức thư trao đổi của nhà thơ Nguyễn Xuân Sanh với tác giả
Từ những điều ông trao đổi trong thư, tôi “ngộ” ra, văn chương nói chung, thơ ca nói riêng không thể thiếu vắng niềm say mê tìm tòi, sáng tạo và phải được chuẩn bị hết sức công phu về mọi mặt ngay từ lúc mới đặt chân vào. Nghệ thuật chân chính không bao giờ tách rời mà luôn hòa quyện nhuần nhuyễn vào cuộc sống. Khi người viết đã xác tín những điều cơ bản này thì hoạt động sáng tạo văn chương sẽ không lo chệch hướng. Bằng chính cuộc đời cùng sự nghiệp sáng tạo văn chương không mệt mỏi của mình, nhà thơ Nguyễn Xuân Sanh đã nêu một tấm gương lao động nghệ thuật say mê, liên tục và bền bỉ. Ông sống trọn 1 thế kỷ và trở thành nhà thơ trường thọ nhất trong làng thơ Việt Nam. Trong 1 bức thư ngắn, đề ngày 14/5/1981, nhà thơ Giang Nam (1929 - 2023) đã chỉ ra cho tôi, về những điều còn thiếu hoặc chưa rõ nét trong thơ mình, đó là: sắc thái địa phương (bản sắc); dấu ấn riêng biệt của tác giả trong phong cách, suy nghĩ, cảm xúc. Và những lời dặn dò ân cần này đã theo tôi trong suốt hành trình thơ với bao nhiêu trăn trở, vui buồn, khó nhọc của đời chữ - đời văn. Đối với nhà văn quân đội Nam Hà (1935 - 2018) - người có nhiều năm gắn bó máu thịt với chiến trường khu VI và Bình Thuận trong kháng chiến chống Mỹ, thì viết về cuộc chiến tranh Vệ quốc vĩ đại là “món nợ ân tình” không dễ gì trả hết. Có lẽ, không ai trong chúng ta không biết đến những câu thơ nổi tiếng của ông: Đất nước của những người con gái, con trai/Đẹp như hoa hồng cứng hơn sắt thép/Xa nhau, không hề rơi nước mắt/Nước mắt để dành cho ngày gặp mặt. Trong thư, đề ngày 20/2/1990, ông tâm sự với tôi: “… Rõ ràng không một ai được phủ nhận chiến công đã lập nên bởi biết bao số phận con người, biết bao xương máu. Cải tổ hay đổi mới hoàn toàn không phải là phủ nhận, là bác bỏ lịch sử. Phải cay đắng nhận những sai lầm nhưng không được quên bối cảnh lịch sử. Cái khó là phân tích cho được chiều sâu của những nguyên nhân, của những bối cảnh và rút ra được cái gì của lịch sử, cho lịch sử…”. Ta có thể đọc thấy những tìm tòi đầy tâm huyết, sự tự vấn trở đi trở lại của tác giả trong hàng loạt tác phẩm viết về chiến tranh cách mạng theo phong cách sử thi của ông như: Đất miền Đông, Trong vùng Tam giác sắt, Ngày rất dài… Rõ ràng, các nhà văn, nhà thơ vẫn còn nợ đất nước và dân tộc những tác phẩm đỉnh cao, góp phần lý giải một cách thuyết phục về tầm vóc lớn lao, sự hi sinh vô giá của Nhân dân trên con đường đi đến thống nhất, hòa bình, độc lập của dải đất hình chữ S. Với hành trình sáng tạo của mình, Nam Hà là một trong những đại diện xứng đáng cho thế hệ các nhà văn - chiến sĩ.
Trong những bức thư tôi nhận được từ nhà thơ Nguyễn Bùi Vợi (1933 - 2008), bao giờ anh cũng động viên, dù bận rộn thế nào cũng phải dành thời gian để viết, không được ngừng nghỉ. Anh chia sẻ, phải viết bằng điệu tâm hồn của riêng mình với những rung cảm chân thực nhất, vì thơ tối kỵ sự giả dối. Anh vẫn thường ví von: Những nhà thơ tài năng, gặt một vụ, có khi ăn cả đời. Còn anh em mình kém tài, thì gặt vụ nào, ăn vụ ấy. Tôi hiểu, đó chỉ là những lời khiêm tốn, anh dành để bảo ban, khích lệ những người viết trẻ còn non nớt như tôi đừng nản lòng, nản chí trên hành trình sáng tạo mà thôi.
Đồng quan điểm với nhà thơ Nguyễn Bùi Vợi, trong những bức thư góp ý về thơ của nhà thơ Võ Văn Trực (1936 - 2019), anh thường lưu ý, tác giả phải có thái độ lao động nghệ thuật một cách nghiêm túc, không được dễ dãi. Người làm thơ phải chú ý đúng mức đến cấu tứ của từng bài thơ, phải đào sâu về mặt hình tượng và không ngừng tìm tòi, sáng tạo. Một điểm đặc biệt của nhà thơ Võ Văn Trực là anh viết theo bút pháp truyền thống nhưng anh luôn khuyến khích các tác giả trẻ mạnh dạn cách tân, đổi mới thi pháp và sẵn sàng dung nạp mọi phong cách thơ trong giai đoạn anh làm biên tập ở Tuần báo Văn Nghệ - Hội Nhà văn Việt Nam.
Trên đây là những điều tôi rút ra được từ những bức thư trao đổi, bảo ban về nghề nghiệp của các nhà văn, nhà thơ bậc đàn anh, đàn chú mà tôi vinh dự quen biết. Họ thanh thản ra đi sau khi đã sống và sáng tạo bằng tất cả tài năng và tâm huyết của mình, cống hiến cho văn học nước nhà những tác phẩm mang dấu ấn đậm nét của lịch sử và thời đại.


































