Hoàn thiện hệ thống pháp luật thống nhất, đồng bộ về công trình xanh, giao thông xanh
Theo PGS.TS Lê Trung Thành, Vụ trưởng Vụ Khoa học công nghệ, môi trường và vật liệu xây dựng (Bộ Xây dựng), để phát triển công trình xanh, giao thông xanh, Việt Nam cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật thống nhất, đồng bộ, khả thi và minh bạch.
Quy định pháp luật cơ bản đầy đủ
- Thưa ông, việc phát triển công trình xanh và giao thông xanh tại Việt Nam có ý nghĩa như thế nào?
Công trình xanh (CTX) là công trình được thiết kế, xây dựng, vận hành theo hướng giảm thiểu tối đa tác động tiêu cực đến môi trường tự nhiên.
Trong khi đó, giao thông xanh (GTX) là hệ thống giao thông được phát triển theo hướng thân thiện môi trường, sử dụng hiệu quả năng lượng và giảm phát thải khí nhà kính.

PGS.TS Lê Trung Thành, Vụ trưởng Vụ Khoa học công nghệ, môi trường và Vật liệu xây dựng (Bộ Xây dựng).
Mục tiêu chung của việc phát triển CTX hay GTX đều hướng đến giảm phát thải, tiết kiệm năng lượng, tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên và nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân.
CTX và GTX là hai cấu phần quan trọng của phát triển kinh tế xanh, góp phần giảm phát thải, tiết kiệm tài nguyên, đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng sống và sức cạnh tranh của nền kinh tế.
- Việc phát triển CTX, GTX được quy định như thế nào trong các văn bản quy phạm pháp luật của Việt Nam?
Đến nay, chúng ta đã có một hệ thống pháp luật khá đồng bộ để thúc đẩy phát triển CTX và GTX, bao gồm hệ thống các luật, nghị định, thông tư cho đến quy chuẩn, tiêu chuẩn, các chương trình, đề án của Chính phủ và các Bộ, ngành, địa phương...
Trong đó, Nghị quyết số 06-NQ/TW ngày 24/1/2022 của Bộ Chính trị về quy hoạch, xây dựng, quản lý và phát triển bền vững đô thị Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 đã quy định rõ việc sử dụng vật liệu xanh, phát triển hạ tầng xanh, CTX và tiêu thụ năng lượng xanh tại các đô thị.
Hệ thống các luật như Xây dựng, Bảo vệ môi trường, Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả, Đường bộ, Đường sắt, Hàng không dân dụng Việt Nam, Hàng hải Việt Nam… cũng đề cập đến phát triển kinh tế xanh, trong đó có lồng ghép các nội dung về CTX và GTX. Các văn bản dưới luật tiếp tục làm rõ các nội hàm về phát triển CTX, GTX.
Ở cấp Bộ, Bộ Xây dựng đã hoàn thiện các tiêu chí, quy chuẩn, tiêu chuẩn về CTX, GTX, công trình sử dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả, tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên…
- Đến nay, CTX, GTX ở Việt Nam đang phát triển ở mức độ như thế nào, thưa ông?
Tính đến thời điểm hiện tại, Việt Nam có hơn 600 CTX với tổng diện tích sàn khoảng 17 triệu m2. Mỗi năm, cả nước có thêm hơn 100 CTX.

Trong đầu tư công ở Việt Nam đã có các tiêu chí khuyến khích đầu tư phát triển CTX (Ảnh minh họa).
Về phương tiện xanh, số lượng xe bus điện và các phương tiện chuyển dịch từ xe xăng sang xe điện đang tăng mạnh trong những năm gần đây, đặc biệt là tại Hà Nội TP.HCM, Đà Nẵng và Hải Phòng.
Cùng với khối tư nhân, các dự án đầu tư công cũng đang tích cực phát triển CTX, GTX. Trong đầu tư công, chúng ta đã có các tiêu chí khuyến khích đầu tư phát triển CTX, GTX.
Trong thời gian tới, để thúc đẩy các dự án đầu tư công là CTX, các chủ đầu tư, ban quản lý dự án có vốn đầu tư công cần phải nghiên cứu kỹ quy định pháp luật để áp dụng các tiêu chí CTX hoặc công trình tiết kiệm năng lượng, giảm phát thải khi phát triển các dự án mới.
- Theo ông, các doanh nghiệp có vai trò như thế nào trong tiến trình thúc đẩy phát triển CTX và GTX tại Việt Nam?
Các doanh nghiệp chủ đầu tư, doanh nghiệp tư vấn có vai trò rất quan trọng để đưa chính sách của Nhà nước đi vào cuộc sống.
Để triển khai các dự án CTX và GTX, đội ngũ tư vấn phải có kiến thức và kinh nghiệm, nhất là kinh nghiệm quốc tế và tổng hợp các kiến thức từ các hệ thống nghiên cứu tiêu chuẩn, quy chuẩn, các nhiệm vụ khoa học công nghệ...
Chỉ khi chắt lọc như vậy thì đội ngũ tư vấn này mới có đủ năng lực và trình độ để có thể thuyết phục được các chủ đầu tư vay vốn, đầu tư tài chính vào các dự án CTX và GTX.
Những năm trước, các công ty tư vấn CTX hay GTX còn hạn chế về số lượng. Nguồn nhân lực của nhóm tư vấn này thiếu rất nhiều. Nhưng đến năm nay, thông qua các tọa đàm, hội thảo, có thể thấy, các doanh nghiệp đã chủ động hơn trong việc đào tạo nguồn nhân lực.
Thông qua các dự án hợp tác quốc tế, Bộ Xây dựng cũng đã đào tạo, nâng cao trình độ cán bộ ở các vùng miền, các tổ chức nghiên cứu và tổ chức tư vấn...
Tăng cường hoàn thiện thể chế, thu hút nhà đầu tư
- Theo ông, việc phát triển CTX, GTX tại Việt Nam đang gặp phải những rào cản nào?
Bên cạnh những kết quả đạt được, chúng ta cũng phải nhìn nhận thẳng thắn rằng việc phát triển CTX và GTX tại Việt Nam vẫn còn một số khó khăn, vướng mắc.

Số lượng phương tiện chuyển dịch từ xe xăng sang xe điện tại Việt Nam đang tăng mạnh trong những năm gần đây (Ảnh minh họa).
Rào cản thứ nhất là công tác tuyên truyền về GTX, CTX vẫn còn hạn chế. Ở cấp độ Trung ương, hàng năm Bộ Xây dựng đều tổ chức Tuần lễ CTX, nay là Tuần lễ CTX và GTX.
Tại địa phương, các thành phố trực thuộc Trung ương như Hà Nội, TP.HCM hay Đà Nẵng cũng tổ chức nhiều chương trình hội thảo, tọa đàm nâng cao nhận thức...
Tuy nhiên, công tác tuyên truyền về CTX, GTX vẫn cần được tăng cường, lan tỏa mạnh hơn nữa để các chủ đầu tư, người sử dụng sản phẩm, dịch vụ CTX; nhà đầu tư, người sử dụng các phương tiện GTX có nhận thức đầy đủ về chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.
Rào cản thứ hai là khả năng tiếp cận nguồn tín dụng xanh cho CTX, GTX còn hạn chế.
Rào cản thứ ba là thiếu nguồn nhân lực có chất lượng chuyên môn sâu về CTX, GTX. Hiện nay, hầu hết các chủ đầu tư đều phải thuê tư vấn nước ngoài.
Rào cản thứ tư là các chủng loại vật liệu xanh chưa đa dạng. Vật liệu tiết kiệm năng lượng phục vụ CTX đã có nhưng cần phải dán nhãn năng lượng để phân biệt với vật liệu thông thường.
Liên quan đến nội dung này, Bộ Xây dựng đang nghiên cứu xây dựng văn bản dưới luật nhằm thực thi dán nhãn năng lượng cho vật liệu xây dựng trong thời gian tới.
Rào cản thứ năm là hạ tầng trạm sạc để phát triển GTX chưa đồng bộ. Chi phí cho phương tiện xanh vẫn còn đắt đỏ.
Rào cản thứ sáu là cơ chế ưu đãi tài chính chưa đủ mạnh để khuyến khích chuyển đổi phương tiện xanh quy mô lớn...
- Theo ông, trong thời gian tới, nên thực hiện những giải pháp nào để thúc đẩy phát triển CTX, GTX tại Việt Nam?
Thứ nhất, chúng ta cần tiếp tục xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật thống nhất, đồng bộ, khả thi, minh bạch về phát triển CTX, GTX. Đây là nhóm giải pháp quan trọng nhất.
Những luật cốt lõi liên quan đến CTX và GTX như luật Xây dựng, luật Bảo vệ môi trường, luật Sử dụng năng lượng tiết kiệm hiệu quả, luật Đường sắt, luật Đường bộ… cần được rà soát thường xuyên.
Hệ thống các văn bản dưới luật như nghị định, thông tư, quy chuẩn, tiêu chuẩn… cũng phải được xây dựng, ban hành thống nhất, đồng bộ.
Thứ hai, để thúc đẩy CTX, GTX thì phải có người đầu tư và người sử dụng. CTX hay GTX phải thu hút nhà đầu tư tham gia đầu tư thì mới có thể chuyển dịch từ sử dụng nhiên liệu hóa thạch sang nhiên liệu xanh, phát triển bền vững.
Thứ ba, cần đánh giá kỹ thực tiễn trong nước để có lộ trình phát triển CTX, GTX ở mức độ phù hợp với Việt Nam.
Thứ tư, cần tăng cường đào tạo, phát triển nguồn nhân lực có chuyên môn sâu về CTX, GTX. Từ đội ngũ tư vấn, nhà thầu, nhà đầu tư cho đến người sử dụng đều phải có nhận thức đầy đủ về CTX, GTX.
Thứ năm, cần tiếp tục đề xuất các giải pháp về cơ chế, chính sách để khuyến khích các nhà đầu tư sử dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả, bảo vệ môi trường và thúc đẩy tăng trưởng xanh.
Thứ sáu, cần tăng cường công tác tuyên truyền về thói quen sử dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả và giảm phát thải. Nếu 5-10 năm trước, người dân còn chưa có nhận thức đầy đủ và chưa thích CTX, GTX thì bây giờ đã có nhiều người hiểu rõ về lợi ích mà CTX, GTX mang lại.
Thông qua Tuần lễ CTX và GTX Việt Nam năm 2025, chúng tôi kỳ vọng sẽ nâng cao nhận thức của nhà đầu tư, tư vấn, nhà thầu, người sử dụng...; đồng thời tập hợp các ý kiến đóng góp các nhà chuyên môn, các chủ thể.
Trên cơ sở đó, chúng tôi sẽ nghiên cứu, hoàn thiện hệ thống pháp luật thống nhất, đồng bộ nhằm thúc đẩy phát triển CTX, GTX.
Trân trọng cảm ơn ông!































