Hoàn thiện chính sách và khai thác công nghệ mới: Hai trụ cột phát triển bền vững ngành Nước Việt Nam
Ngành Nước Việt Nam đang đối mặt với nhiều thách thức lớn, từ bất cập trong thể chế và quy hoạch, thiếu dữ liệu và công nghệ, cho tới nhu cầu cấp bách phải thích ứng với biến đổi khí hậu, bảo đảm an ninh nguồn nước và nâng cao chất lượng dịch vụ cho người dân.

Nhà máy nước mặt sông Đuống.
Quy hoạch còn nhiều bất cập
Ông Trịnh Xuân Thịnh – Phó Tổng Giám đốc Công ty CP Nước và Môi trường Việt Nam (VIWASE) nhấn mạnh rằng quy hoạch cấp thoát nước là cơ sở triển khai mọi dự án đầu tư xây dựng, góp phần thu hút vốn, phát triển hạ tầng bền vững và tăng khả năng ứng phó biến đổi khí hậu. Tuy nhiên, quá trình triển khai hiện nay đang bộc lộ nhiều khó khăn.
Luật Quy hoạch số 21/2017/QH14 đã thiết lập hệ thống quy hoạch quốc gia thống nhất, trong đó quy hoạch ngành được tích hợp vào quy hoạch tỉnh và không còn quy hoạch cấp, thoát nước riêng. Nghị định 37/2019/NĐ-CP quy định chi tiết việc thi hành Luật Quy hoạch, trong khi Nghị định 98/2019/NĐ-CP cho phép các thành phố trực thuộc Trung ương được lập quy hoạch cấp, thoát nước riêng. Sự thay đổi này đặt ra yêu cầu mới trong việc bảo đảm tính chuyên môn sâu và tính khả thi khi lồng ghép quy hoạch ngành vào quy hoạch cấp tỉnh.
Thực tiễn triển khai cho thấy năm nhóm bất cập lớn. Thứ nhất, quy hoạch thiếu tính chuyên môn sâu. Nội dung về cấp thoát nước trong quy hoạch tỉnh thường chỉ mang tính định hướng, thiếu chi tiết kỹ thuật, gây khó khăn khi triển khai dự án và tạo ra “khoảng trống pháp lý” cho nhà đầu tư.
Thứ hai, cơ sở dữ liệu ngành nước còn yếu và phân tán, tiêu chuẩn thống kê khác nhau, khó cập nhật và thiếu độ tin cậy, khiến việc dự báo và thiết kế hệ thống chưa chính xác.
Thứ ba, nguồn lực áp dụng khoa học công nghệ còn hạn chế. Việc sử dụng các mô hình thủy lực, thủy văn chưa phổ biến, chi phí áp dụng còn thiếu, dẫn đến khó đánh giá các kịch bản cực đoan do biến đổi khí hậu.
Thứ tư, quy hoạch thiếu sự đồng bộ với các ngành khác. Thực tế còn xảy ra mâu thuẫn với quy hoạch sử dụng đất, giao thông, thủy lợi, thủy điện… làm gia tăng chi phí đầu tư và kéo dài tiến độ.
Thứ năm, thiếu sự liên kết vùng. Nguồn nước thường vượt ranh giới hành chính, trong khi việc khai thác và xả thải giữa các tỉnh còn bất cập, dễ dẫn đến xung đột lợi ích và thiếu an ninh nguồn nước.
Để khắc phục, ông Trịnh Xuân Thịnh đưa ra ba nhóm giải pháp. Một là, hoàn thiện thể chế và chính sách, thúc đẩy ban hành Luật Cấp thoát nước và xây dựng quy hoạch ngành ở cấp quốc gia; Hai là, ứng dụng công nghệ và dữ liệu số, bao gồm BIM, GIS, AI, viễn thám, mô hình thủy văn – thủy lực; Ba là, tăng cường nguồn lực và năng lực thực thi, trong đó Nhà nước cần bố trí ngân sách, quy định chi phí định mức riêng và bắt buộc áp dụng công nghệ mô hình hóa trong quy hoạch.
Theo ông Nguyễn Minh Đức – Trưởng phòng Quản lý Cấp thoát nước (Cục Kết cấu hạ tầng xây dựng, Bộ Xây dựng) bổ sung thêm bức tranh thực tiễn, hiện có khoảng 250 doanh nghiệp cấp nước đô thị, trong đó 105 doanh nghiệp đã chuyển sang mô hình công ty cổ phần, số còn lại vẫn hoạt động theo mô hình công ty TNHH MTV. Toàn quốc có khoảng 1.000 nhà máy nước sạch tại đô thị và vùng nông thôn phụ cận, tổng công suất đạt 13,2 triệu m3/ngày. Tỷ lệ dân cư đô thị được cung cấp nước sạch đạt 94%, song tỷ lệ thất thoát, thất thu vẫn ở mức 15,5%.
Ở nông thôn, có khoảng 18.000 công trình cấp nước tập trung và 10 triệu công trình quy mô hộ gia đình. Tỷ lệ người dân nông thôn sử dụng nước hợp vệ sinh đạt 92,5%, trong đó gần 54% được sử dụng nước sạch đạt quy chuẩn Bộ Y tế. Hiện 44% dân số nông thôn được cấp nước từ công trình tập trung, còn lại 56% phải dùng công trình hộ gia đình.
Trong lĩnh vực thoát nước và xử lý nước thải, tỷ lệ thu gom nước thải đô thị đạt khoảng 64%, khoảng 70% hộ gia đình đấu nối vào hệ thống. Tính đến cuối năm 2024, cả nước có 83 nhà máy xử lý nước thải đô thị đang vận hành tại hơn 50 đô thị, tổng công suất thiết kế 2,064 triệu m3/ngày, nhưng công suất thực tế mới đạt khoảng 1,063 triệu m3/ngày.
Những con số này cho thấy hệ thống pháp luật hiện nay vẫn chưa tương xứng với vai trò của dịch vụ cấp, thoát nước – vốn là dịch vụ thiết yếu. Quy hoạch cấp thoát nước còn thiếu đồng bộ, chất lượng dự báo hạn chế, gây khó khăn trong đầu tư và định hướng phát triển. Hoạt động đầu tư xây dựng công trình cấp thoát nước chưa đáp ứng được nhu cầu kinh tế – xã hội và bảo vệ môi trường, đặc biệt ở vùng sâu, vùng xa, hải đảo.
Ngoài ra, cơ sở dữ liệu về cấp thoát nước còn thiếu và chưa đầy đủ, ảnh hưởng tới công tác quản lý, lập quy hoạch và đầu tư. Nhiều công trình thiếu bền vững, hiệu quả vận hành chưa cao. Giá nước sạch gặp khó khăn trong việc ban hành, còn giá dịch vụ thoát nước và xử lý nước thải thấp, khiến khó huy động nguồn lực đầu tư. Quản lý nhà nước trong lĩnh vực này vẫn còn chồng chéo, chưa thống nhất.
Bộ Xây dựng đã báo cáo Chính phủ về việc xây dựng Luật Cấp thoát nước từ năm 2022, hồ sơ đã được trình Quốc hội đưa vào chương trình xây dựng luật 2025. Tuy nhiên, do việc sáp nhập đơn vị hành chính, Quốc hội quyết định lùi lại, dự kiến đưa vào Chương trình 2026 – 2027.
Dự thảo Luật mới coi nước sạch là sản phẩm, hàng hóa đặc biệt, mọi người dân có quyền tiếp cận; quy hoạch cấp thoát nước phải gắn với quy hoạch lưu vực sông, thủy lợi; đồng thời khuyến khích phát triển công trình quy mô vùng, liên tỉnh. Nhà nước cũng sẽ tập trung ngân sách 20 – 30 năm tới cho xử lý nước thải, kết hợp huy động nguồn lực tư nhân qua mô hình PPP.
Kinh nghiệm từ Australia
Cũng theo ông Nguyễn Minh Đức, ngành Nước phải bảo đảm dịch vụ cấp thoát nước là dịch vụ thiết yếu, công bằng và tiếp cận được với mọi đối tượng, đặc biệt là phụ nữ, trẻ em, người cao tuổi, người khuyết tật và nhóm dân cư khó khăn. Việc phát triển công trình cấp nước quy mô vùng, liên tỉnh cần tính đến yếu tố bền vững, thích ứng với biến đổi khí hậu, đồng thời kết nối cấp nước đô thị với nông thôn. Cùng với đó, cần nâng cao chất lượng dịch vụ, bảo đảm an ninh và an toàn hệ thống cấp thoát nước, phòng ngừa rủi ro thiên tai, biến đổi khí hậu. Việc xử lý triệt để nước thải, kiểm soát ngập úng đô thị, tái sử dụng nước thải và bùn thải, thúc đẩy kinh tế tuần hoàn là yêu cầu cấp bách. Đồng thời, cần quản lý giá nước sạch và giá dịch vụ thoát nước hợp lý, vừa bảo đảm quyền lợi người dân vừa tạo động lực huy động vốn đầu tư tư nhân.
Song song với chính sách, công nghệ mới – đặc biệt là trí tuệ nhân tạo (AI) đang tạo ra bước chuyển cho ngành nước trên thế giới. TS Trần Văn Huy – Trưởng Dự án quốc tế, Hội Nước Úc (AWA) cho biết, tại Australia, nhiều dự án AI đã được triển khai thành công trong quản lý chất lượng và vận hành hạ tầng nước.
AWA là mạng lưới lớn nhất tại Australia, kết nối ngành nước với các bên liên quan, thúc đẩy đổi mới và phát triển bền vững. Theo khảo sát McKinsey (2024), ngành nước toàn cầu vẫn thận trọng khi áp dụng AI, thường chỉ ưu tiên ở mức “lao động nhận thức” thay vì tự động hóa hoàn toàn. AI cũng tiềm ẩn rủi ro như dự báo sai sự cố, nguy cơ tấn công mạng, giả mạo dữ liệu, hay sự phụ thuộc quá mức khiến con người mất dần chuyên môn.
Dù vậy, nhiều dự án ở Australia đã cho thấy hiệu quả rõ rệt. Viện Khoa học dữ liệu UTS phối hợp với Sydney Water và Melbourne Water phát triển công cụ dự báo chất lượng nước thô với độ chính xác 90%, giúp tiết kiệm chi phí hóa chất. Tại Queensland, dự án Qcam ứng dụng AI và thị giác máy tính giám sát chất lượng và mực nước. SA Water dùng AI để dự báo nhu cầu tiêu thụ, phát hiện rò rỉ qua đồng hồ thông minh. Sydney Water kết hợp UTS ứng dụng AI dự báo vỡ ống, tiết kiệm 10 triệu m³ nước và 23 triệu USD chi phí.
Ngoài ra, Canberra triển khai AquaWatch – hệ thống camera AI giám sát bẫy rác, Urban Utilities phát triển bản sao số (Digital Twin) để mô phỏng hạ tầng và dự báo lũ, còn bang NSW ứng dụng cảm biến mạng và AI để cảnh báo mưa, sạt lở, lũ, tăng khả năng ứng phó khẩn cấp.
Những kinh nghiệm này cho thấy AI không còn là công nghệ viễn tưởng, mà đã hiện diện trong nhiều ứng dụng thực tiễn, góp phần giải quyết thách thức biến đổi khí hậu, khan hiếm nước và hạ tầng cũ kỹ. Tuy nhiên, để ứng dụng thành công, cần song hành giữa công nghệ và yếu tố con người, đồng thời chú ý đến tác động môi trường khi trung tâm dữ liệu AI tiêu tốn nhiều điện và nước.