Hoàn thiện chính sách thuế để thúc đẩy kinh tế xanh
Chính sách thuế để thúc đẩy tăng trưởng xanh đã góp phần phát triển kinh tế. Tuy nhiên, Việt Nam vẫn chưa có chính sách thuế tổng thể đối với các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực kinh tế xanh và kinh tế tuần hoàn, đặc biệt là trong sản xuất xanh và giảm phát thải CO2.
Số thu thuế, phí BVMT đã tăng về tỷ trọng nhưng vẫn chưa bao quát
Chính sách thuế ở nước ta được bổ sung, sửa đổi và hoàn thiện hướng tới mục tiêu tăng trưởng xanh và phát triển kinh tế bền vững. Chính sách thuế này đã khuyến khích các tổ chức, cá nhân khai thác, sử dụng hợp lý, hiệu quả tài nguyên và bảo vệ môi trường (BVMT).
Trong đó, thuế BVMT - một loại thuế xanh, có vai trò quan trọng trong việc hạn chế sản xuất và tiêu dùng hàng hóa gây tác động xấu đến môi trường, thúc đẩy doanh nghiệp sản xuất các sản phẩm thân thiện với môi trường. Thuế tài nguyên đã góp phần khuyến khích việc khai thác và sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên thiên nhiên; nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp khai thác khoáng sản.
Thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt (TTĐB) và thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN) đã khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư đổi mới công nghệ, hướng tới sản xuất xanh, khuyến khích tiêu dùng hàng hóa thân thiện với môi trường. Bên cạnh đó, chính sách thuế đã huy động nguồn thu lớn, tăng thêm nguồn lực tài chính để đầu tư cho tăng trưởng xanh, bù đắp chi phí cho các hoạt động BVMT.
Nguồn thu từ thuế, phí được đầu tư đáp ứng các nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đảm bảo tỷ trọng đáng kể để đầu tư cho tăng trưởng xanh, BVMT. Việc thực hiện các chính sách thuế liên quan đến việc BVMT cũng góp phần quan trọng trong việc thực hiện cam kết của Việt Nam đối với cộng đồng quốc tế về biến đổi khí hậu như các cam kết theo thỏa thuận COP21 và COP26.
Trong tổng số thu từ thuế, phí, số thu thuế, phí BVMT ngày càng tăng về tỷ trọng và dần trở thành một sắc thuế quan trọng trong việc tạo nguồn thu để BVMT. Theo Bộ Tài chính, nếu năm 2011 thuế BVMT mới chỉ đạt 11.201 tỷ đồng, chiếm 1,5% tổng thu ngân sách nhà nước thì năm 2021, thuế BVMT đã đạt 59.697 tỷ đồng, chiếm khoảng 3,8% tổng thu ngân sách và đang dần trở thành một sắc thuế quan trọng.
Bên cạnh những kết quả đạt được, chính sách thuế vẫn còn một số hạn chế. Cụ thể, Luật Thuế BVMT chưa bao quát hết các đối tượng gây tác động xấu tới môi trường. Hiện nay, mới chỉ quy định 8 nhóm chịu thuế, nhiều hàng hóa khi sử dụng gây hại đến môi trường nhưng chưa được quy định thuộc đối tượng chịu thuế của thuế BVMT, như khí thải công nghiệp, thuốc lá, chất thải phóng xạ, một số những chất gây độc hại gồm cả axit vô cơ, xút, hóa chất bảo vệ thực vật, dung môi hữu cơ, thủy ngân… Mức thu thuế BVMT vẫn còn thấp so với mức độ ô nhiễm gây ra như túi ni lông, xăng dầu, vì thế chưa đủ sức điều tiết tiêu dùng các hàng hóa gây hại cho môi trường. Còn đối tượng chịu thuế điều chỉnh bởi Luật Thuế tài nguyên chưa được bổ sung phù hợp với các tài nguyên cần khai thác hợp lý, hiệu quả, bền vững. Hay như đối với thuế TTĐB, đối tượng chịu thuế còn khá hẹp.
Một số đối tượng hàng hóa, dịch vụ trong quá trình sản xuất tiêu dùng gây ô nhiễm môi trường chưa nằm trong danh mục hàng hóa, dịch vụ chịu thuế TTĐB như: Kim loại, đá quý, các sản phẩm dầu mỏ… Như vậy, tác động trực tiếp của chính sách thuế đến hoạt động sản xuất và hành vi tiêu dùng các sản phẩm gây tác động xấu đến môi trường còn hạn chế. Vì thế, theo các chuyên gia về tài chính, cần tiếp tục sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện chính sách thuế để tạo ra các tác động mạnh hơn và hiệu quả hơn đến mục tiêu tăng trưởng xanh, góp phần phát triển kinh tế bền vững.
Mở rộng phạm vi, đối tượng chịu thuế
Theo PGS,TS. Đỗ Đức Minh - Trường Đại học Tài chính - Quản trị kinh doanh - để thực hiện Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn 2050 và Kế hoạch hành động quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021 - 2030, cần tính toán đến việc mở rộng phạm vi đối tượng chịu thuế và điều chỉnh mức thuế suất phù hợp đối với hoạt động sản xuất và tiêu dùng các loại hàng hóa có tác động xấu đến môi trường.
Chẳng hạn, cần mở rộng đối tượng chịu thuế đối với các sản phẩm, hàng hóa có gây ô nhiễm môi trường trên diện rộng, như: Phân bón hóa học, chất tẩy rửa; khí than, khí tự nhiên; các loại pin và ắc quy. Đồng thời, cần tăng ưu đãi thuế đối với các hoạt động đầu tư xanh trong chính sách thuế TNDN nhằm khuyến khích đầu tư vào các dự án xanh, tăng trưởng xanh và chuyển đổi xanh. Theo đó, có thể hạ thuế suất hoặc tăng tỷ lệ trích lập quỹ phát triển khoa học và công nghệ với mức tối đa cao hơn 10% thu nhập tính thuế TNDN đối với doanh nghiệp có dự án với tổng mức đầu tư lớn để khuyến khích doanh nghiệp đầu tư công nghệ sản xuất mới theo hướng tăng trưởng xanh và phát triển kinh tế bền vững.
Khuyến nghị giải pháp hoàn thiện chính sách thuế với mục tiêu phát triển kinh tế xanh ở Việt Nam, các chuyên gia về tài chính cho rằng, đối với thuế TTĐB, cần mở rộng cơ sở thuế TTĐB đối với một số đối tượng như khoáng sản, kim loại quý, dầu mỏ hay các hàng hóa khác mà trong quá trình sản xuất gây ô nhiễm môi trường. Đối với thuế tài nguyên, bổ sung đối tượng chịu thuế phù hợp với xu hướng cải cách thuế tài nguyên của các nước. Cùng với đó, nâng mức thuế đánh vào hàng hóa thuộc diện chịu thuế nhằm tác động đến hành vi sản xuất và tiêu dùng các loại hàng hóa có tác động xấu đến môi trường.
Cụ thể, đối với các mặt hàng đang chịu thuế BVMT như xăng dầu, than, túi ni lông, dung dịch HCFC cần thiết phải sửa đổi khung thuế suất cho phù hợp với thực tế. Đối với thuế TTĐB, cần điều chỉnh thuế suất căn cứ vào mức xả thải ra môi trường của đối tượng chịu thuế để đảm bảo công bằng về trách nhiệm BVMT đối với tất cả các đối tượng chịu thuế. Đồng thời, hoàn thiện các quy định ưu đãi thuế nhằm khuyến khích, thúc đẩy doanh nghiệp áp dụng công nghệ mới, công nghệ sạch, tiết kiệm nguyên liệu, sử dụng nguyên liệu thân thiện với môi trường.
Ngoài ra, để đạt được mục tiêu hoàn thiện chính sách thuế cho phát triển kinh tế xanh, cần nghiên cứu để áp dụng thuế các-bon tại Việt Nam. Nguồn thu từ thuế các-bon nên được tái đầu tư vào các dự án năng lượng tái tạo và hỗ trợ các doanh nghiệp trong quá trình chuyển đổi sang các hoạt động bền vững hơn. Hơn nữa, Việt Nam cần tiếp tục đơn giản hóa thủ tục ưu đãi thuế, xây dựng khung pháp lý rõ ràng và thiết lập lộ trình tăng thuế hợp lý./.