Hòa vào dòng Bến Hải
Một buổi chiều tháng Tư, chúng tôi đến bên dòng sông Bến Hải, nơi từng là giới tuyến cắt chia đất nước suốt hơn 20 năm. Tượng đài Chiến sĩ Công an nhân dân vũ trang bảo vệ giới tuyến với hình tượng người chiến sĩ ôm súng AK đứng nghiêm trang, dưới chân anh là từng con sóng, sau lưng anh là cầu Hiền Lương, hướng về bờ Nam bên kia sông gió lồng lộng thổi. Trên sông, vài con thuyền nhỏ ngược xuôi êm đềm.
Thật tình cờ, tại đây chúng tôi gặp ông Nguyễn Hữu Thắng, nguyên Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Quảng Trị cùng các cựu chiến binh, văn nghệ sĩ, thành viên Câu lạc bộ dân ca Sông Hiền chuẩn bị cử hành một nghi lễ trang trọng và ý nghĩa. Giữa không gian linh thiêng của đôi bờ Hiền Lương-Bến Hải, những người con Vĩnh Linh cùng hội tụ tại đây để tổ chức một nghi lễ lấy nước sông Bến Hải và nhận lá quốc kỳ, chuẩn bị cho chuyến đi thăm huyện Tân Kỳ, tỉnh Nghệ An-quê hương nghĩa tình đã từng cưu mang, chở che cho bao người con Vĩnh Linh trong những tháng năm gian khó. Đó là một hoạt động kỷ niệm 50 năm Ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước; 70 năm thành lập khu vực Vĩnh Linh và 62 năm thành lập huyện Tân Kỳ. Đây là một lễ nghi tuy không phải truyền thống, nhưng là hành động biểu tượng thấm đẫm tinh thần tri ân, kết nối và bền chặt nghĩa tình giữa hai miền quê cách xa nhưng đồng điệu về tâm hồn, lịch sử. Nước sông Bến Hải-dòng nước từng nhuốm máu và nước mắt của bao người con đất Việt-hôm nay sẽ được nâng niu, gìn giữ như một biểu tượng thiêng liêng của hòa bình, của khát vọng thống nhất, như lời nhắc nhớ về một quá khứ đau thương nhưng hào hùng, sẽ được hòa vào nước sông Con ở Tân Kỳ...

Nghi thức lấy nước sông Bến Hải. Ảnh: TRẦN MINH TÚ
Năm 1965, đế quốc Mỹ đẩy mạnh cuộc Chiến tranh phá hoại miền Bắc, phạm vi đánh phá mở rộng từ khu vực phía Bắc vĩ tuyến 17 ra đến tận Hà Nội, Hải Phòng. Trước tình hình ngày càng khốc liệt, từ năm 1966 đến 1968, Trung ương Đảng đã triển khai các kế hoạch đặc biệt với mật danh K8 và K10. Mục tiêu của những kế hoạch này là sơ tán người dân khỏi các điểm nóng chiến sự-bao gồm các huyện phía Bắc vĩ tuyến 17 thuộc tỉnh Quảng Trị và khu vực phía Nam tỉnh Quảng Bình-nhằm bảo toàn lực lượng và giảm thương vong trong bối cảnh chiến tranh leo thang dữ dội. Mục đích của kế hoạch là bảo vệ người lớn tuổi, phụ nữ, trẻ nhỏ an toàn, tạo điều kiện để lực lượng tại chỗ yên tâm bám trụ chiến đấu, giữ vững giới tuyến. Việc triển khai kế hoạch K8 diễn ra bí mật, khẩn trương. Hành trình sơ tán được tổ chức an toàn, các em nhỏ được tiếp nhận, nuôi dưỡng, học tập tại nhiều địa phương miền Bắc. Kế hoạch K8 được xem là một cuộc “thiên di” mang tính lịch sử, thể hiện tầm nhìn chiến lược, tinh thần nhân đạo sâu sắc của Đảng và Nhà nước, góp phần bảo toàn lực lượng, tạo hậu phương vững chắc cho tuyến đầu Vĩnh Linh và chiến thắng chung của dân tộc trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Anh Đỗ Hữu Thiện, sinh năm 1967, là một trong những em bé Vĩnh Linh ngày ấy được sơ tán theo kế hoạch. Mẹ đặt anh khi đó mới 3 tháng tuổi trên một đầu quang gánh, ròng rã đi bộ theo đoàn người hàng tháng trời vượt đèo cao, suối sâu, dưới tầm bom đạn, chịu bao gian khổ, đói khát mới đến được Tân Kỳ. Năm 1973, quê nhà hết bom đạn, gia đình anh trở về, rồi anh nhập ngũ, ra quân, học đại học và trở thành doanh nhân có nhiều đóng góp trong lĩnh vực thuế doanh nghiệp FDI và chuyển giá quốc tế tại TP Hồ Chí Minh. Sau 35 năm xa quê, anh trở về thành lập Trung tâm Tri thức Thiện Nhân Văn tại thị trấn Hồ Xá, huyện Vĩnh Linh. Đó là một tổ chức phi lợi nhuận, cung cấp, lan tỏa các giá trị văn hóa, tinh thần cho các em học sinh trên mảnh đất vốn chịu nhiều đau thương do chiến tranh. Cùng đó, trong suốt mấy chục năm qua, anh Đỗ Hữu Thiện thường xuyên làm từ thiện, chia sẻ với nhiều người có hoàn cảnh khó khăn. Anh Thiện tâm sự: “Tôi làm những việc thiện này hoàn toàn tự nhiên, không hề mong nhận lại điều gì. Và có lẽ những điều ấy đã thấm vào tôi từ ngày còn bé, khi sơ tán ở Tân Kỳ, được bà con làng xóm yêu thương, đùm bọc. Ở đó tôi có một bà mẹ nữa là mệ (mẹ) Sơn đã chăm sóc, cho tôi bú mỗi khi mẹ tôi đi làm nương rẫy xa nhà...”.
Anh Đỗ Hữu Thiện là một trong hơn 3 vạn người Vĩnh Linh (Quảng Trị) và Quảng Bình đi sơ tán theo kế hoạch K8, K10, được bà con miền Bắc đùm bọc, yêu thương, vượt qua cuộc chiến tranh tàn khốc, trở về, trưởng thành và đóng góp sức lực, trí tuệ, tâm hồn mình cho quê hương.
Bài văn tế lấy nước sông Con của ông Nguyễn Hữu Thắng đọc, trên chiếc thuyền nhỏ trôi lặng lờ giữa dòng sông xứ Nghệ, có đoạn:
Dòng sông Con hiền hòa uốn khúc
Nơi man mát giọng hò, điệu ví giặm ngân nga
Chiến dịch K10 một thuở chưa xa
Ba vạn người tìm về nơi đây sơ tán
Những cụ già, em thơ
Những thiếu phụ chờ ngày vượt cạn
Khăn tang còn trắng trên đầu
Đói no khoai sắn nhường nhau
Nhường nhau tấm chăn manh chiếu
Bàn thờ cũng nhường nhau để lo tròn chữ hiếu
Bầu sữa mẹ chia hai, nuôi cháu nhỏ K10
Bát nước chè xanh ấm áp tiếng gọi mời
Nước sông Con ngọt ngào tình xứ Nghệ
Đất Tân Kỳ nuôi lớn những mầm xanh...
Dòng nước sông Bến Hải và sông Con không chỉ tưới mát ruộng đồng mà còn chuyên chở những ký ức đỏ lửa, những yêu thương vượt qua mọi giới tuyến địa lý, thời gian. Tân Kỳ và Vĩnh Linh-hai miền quê từng xa mà lại rất gần, bởi được nối bằng những nhịp cầu vô hình máu, nước mắt và lòng son sắt. Có ai từng qua Lèn Rỏi, Bến Sen, Khe Thiềm... mới thấu được sức chịu đựng phi thường của đất, của người. Có ai từng nghe chuyện những chuyến hàng đêm băng qua mưa bom từ hậu phương miền Bắc tiếp tế cho Vĩnh Linh, mới hiểu được rằng chiến thắng bắt nguồn từ nghĩa tình đồng bào-chan chứa, bền chặt. Nếu không có Tân Kỳ, nếu không có hậu phương chở che từng bát cơm, cọng rau... hẳn đất tuyến đầu đã tang trắng nhiều hơn. Dòng sông Con nơi đây-lặng lẽ mà kiêu hãnh-chính là nơi neo đậu biết bao ân tình. Nơi ấy, nước hòa nước-nước mắt người mẹ tiễn con ra trận hòa với dòng nước mát chảy về từ thượng nguồn Pù Loi. Cũng từ đó, nghĩa quê càng thêm sâu thẳm, như muối mặn gừng cay, không thể đong đếm.
Ông Nguyễn Hữu Thắng chia sẻ với chúng tôi: “Hôm nay, sau nửa thế kỷ đất nước hòa bình, không còn bom rơi đạn nổ, những người con Vĩnh Linh lại về bên dòng sông Con ân nghĩa, đem theo giọt nước của sông Bến Hải. Bầu nước ấy không chỉ là lễ vật mà là lời thề thủy chung, son sắt. Là minh chứng rằng, dù thời thế đổi thay, nghĩa tình hai quê vẫn không hề lay chuyển”.
Xin được hòa mình vào dòng nước mát lành ấy để tiếp nối một dòng chảy bất tận, dòng chảy của đạo lý, của tình người và của ký ức thiêng liêng giữa hai bờ Nam-Bắc. Sau lễ thắp hương tưởng niệm dưới tượng đài, Trần Minh Tú, phóng viên Báo Quân đội nhân dân cùng lên thuyền với mọi người ra giữa dòng Hiền Lương thực hiện nghi thức thả hoa tưởng niệm những người đã hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc và lấy nước sông Bến Hải. Anh ghi vào ống kính hình ảnh chiếc cầu Hiền Lương lịch sử vươn cao trên bầu trời tháng Tư lịch sử, và chiếc cầu bê tông được xây dựng sau này đang tấp nập dòng người vào Nam ra Bắc. Và anh nhớ rõ năm 1968, hai phóng viên Báo Quân đội nhân dân là Lê Đình Dư và Nguyễn Ngọc Nhu cùng Tiểu đoàn 47 đã vượt qua con sông này vào chiến trường chiến đấu, hy sinh ngay trên chiến hào thuộc huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị.
Để có một ngày 30-4-1975 và để có một ngày 30-4-2025, đã có biết bao nhiêu lớp người Việt vượt qua sông Bến Hải... Rất nhiều người đã không trở về. Hòa vào nước sông Bến Hải là máu và nước mắt của cả một dân tộc. Và cũng từ đây, với nghĩa cử ân tình của những người dân đất lửa Vĩnh Linh đang sống trong hòa bình, nước sông Bến Hải hiền hòa, xanh thẳm được mang đến hòa với những dòng sông khác trên khắp đất nước Việt Nam. Sông Hồng, sông Lô, sông Mã, sông Lam, sông Cửu Long nghìn trùng sóng vỗ... Những dòng sông của nước Việt Nam hòa bình mải miết chảy về biển cả, mang khát vọng vươn mình!