Hình ảnh anh 'Bộ đội Cụ Hồ' trong thơ

Trong nền thơ ca cách mạng Việt Nam, anh 'Bộ đội Cụ Hồ' luôn là hình ảnh trung tâm sáng ngời, hội tụ bao phẩm chất tốt đẹp. Đó cũng chính là nguồn cảm hứng bất tận để các nhà thơ viết nên những áng thơ hay. Bài thơ 'Đầu súng trăng treo' (Chính Hữu) đã khái quát nên một biểu tượng cao đẹp, cao cả. Và chính trong đội ngũ cầm súng đã xuất hiện lớp nhà thơ chiến sĩ viết tiếp 'Bài thơ báng súng' (Hoàng Trung Thông).

Ảnh minh họa

Ảnh minh họa

Thơ thời kỳ kháng chiến chống Pháp có rất nhiều bài thơ hay, sinh động viết về sự thiếu thốn vật chất, trang bị của người lính, nhưng lại vô cùng lạc quan, thân thiện và mộc mạc. Nhà thơ Tố Hữu ngày ấy cũng đầu quân vào bộ đội, cũng ba lô trên vai; trong bài thơ “Cá nước”, khi gặp anh bộ đội vượt đèo Nhe, đã khắc họa ấm nồng biết bao: “Giọt mồ hôi rơi/ Trên má anh vàng nghệ/ Anh Vệ quốc quân ơi/ Sao mà yêu anh thế”. Họ đã tự giới thiệu mình thật hồn nhiên và tự hào: “Quê hương anh nước mặn đồng chua/ Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá/ Anh với tôi đôi người xa lạ/ Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau/ Súng bên súng/ Đầu sát bên đầu/ Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỷ” (Chính Hữu).

Trong kháng chiến chống Mỹ, nhà thơ Hữu Thỉnh có tứ thơ phát hiện khá hay về: “Năm anh em trên một chiếc xe tăng/ Như năm ngón tay trên một bàn tay/ Đã ra trận là năm người như một” và khi giáp mặt với quân thù thì: “Một ý chí bay qua đầu ngọn súng/ Một niềm tin nghiến nát quân thù”, có lẽ đây là một trong những tượng đài đẹp nhất, sinh động và ấn tượng nhất về tình đồng chí, đồng đội.

Lãng mạn và bay bổng biết bao khi người lính, thi sĩ Nguyễn Duy đã ví mái tăng là “bầu trời vuông”: “Sục sôi bom lửa chiến trường/ Tâm tư yên tĩnh vẫn vuông một vùng”. Chỉ có những người lính với tinh thần lạc quan, vượt lên bao hiểm nguy ác liệt, trong thơ Phạm Tiến Duật mới tinh tế nhận ra rằng: “Thế đấy ở chiến trường/ Nghe tiếng bom rất nhỏ”. Và những người lính xe vận tải trên đường Trường Sơn mới có cái tư thế: “Không có kính rồi không có đèn/ Không có mui xe, thùng xe có xước/ Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước/ Chỉ cần trong xe có một trái tim...”.

Có một mảng thơ khá đặc sắc và phong phú khi viết về người lính, đó là thơ tình yêu: tình yêu lứa đôi của người chiến sĩ gắn với tình yêu đất nước. Đó là vẻ đẹp bình dị và cao cả của tình yêu riêng tư gắn với lý tưởng thiêng liêng. Bài thơ “Nhớ” của Nguyễn Đình Thi là nỗi nhớ tâm tình muôn thuở, nhưng được đặt trong khung cảnh chiến tranh, với tâm thế lớn lao, khát khao cháy bỏng và nỗi niềm chan chứa: “Anh yêu em như yêu đất nước/ Vất vả đau thương tươi thắm vô ngần”. Người yêu-em được trang trọng đặt ngang hàng đất nước để khẳng định: “Chúng ta yêu nhau chiến đấu suốt đời”.

Lại có những người lính xuất thân từ nông thôn bình dị mà lạc quan trong bài thơ “Nhớ” của Hồng Nguyên: “Đằng nớ vợ chưa/ Đằng nớ! Tớ còn chờ độc lập/ Cả lũ cười vang bên ruộng bắp/ Nhìn o thôn nữ cuối nương dâu”. Tình yêu của người lính biển trong thơ Trần Đăng Khoa đã bắt được nhuần nhuyễn cái tứ: “Biển một bên và em một bên”. Biển chính là hiện thân một phần máu thịt đất nước, là nơi những người lính đang ngày đêm canh phòng, bảo vệ trọn vẹn đảo tiền tiêu. Em là một phần máu thịt của đất liền, của hậu phương thân yêu: “Đất nước gian lao chưa bao giờ bình yên/ Bão thổi chưa ngưng trong những vành tang trắng/ Anh đứng gác. Trời khuya. Đảo vắng/ Biển một bên và em một bên”.

Nhân lên từ tình yêu thiên nhiên, tình yêu đất nước cao cả là những xao xuyến rất nhỏ và ngân rung lay động như “Trên đồi chốt nghe chim hót” của nhà thơ Hoàng Nhuận Cầm: “Mũ tai bèo khẽ nghiêng nghiêng/ Nghe lăn tăn những tiếng chim xuống hầm”.

Người lính ra trận, ai chẳng có những cuộc chia tay: “Con ra tiền tuyến xa xôi/ Yêu bầm yêu nước cả đôi mẹ hiền” (Tố Hữu). Có những cuộc chia ly trên cánh đồng lúa trong thơ Trần Hữu Thung: “Em tiễn anh lên đường/ Chiếc xách mây anh mang/ Em nách mo cơm nếp/ Lúa níu anh trật dép”. Chỉ một hình ảnh khá cụ thể và chọn lọc tiêu biểu: “Lúa níu anh trật dép” đã hàm chứa bao yêu thương gắn bó, tâm tình gửi gắm tin cậy với người ra trận.

Và còn có cả cuộc “Chia ly màu đỏ” khá lý tưởng của nhà thơ Nguyễn Mỹ: “Đó là cuộc chia ly chói ngời sắc đỏ/ Tươi như cánh nhạn lai hồng”. Một vẻ đẹp tươi sáng và nồng ấm của những gam màu thiên nhiên, của nắng, của hoa và màu áo đỏ của người yêu. Một tứ thơ độc đáo với sắc thơ ngời ngời sức sống, với cái màu đỏ đã theo anh đi suốt dọc chiến trường như thắp lửa trong tim, ánh lên bao khát vọng: “Cái màu đỏ như cái màu đỏ ấy/ Sẽ là bông hoa chuối đỏ tươi/ Trên đỉnh dốc cao vẫy gọi đoàn người/ Sẽ là ánh lửa hồng trong đêm gió rét/ Nghĩa là màu đỏ ấy theo đi/ Như không hề có một cuộc chia ly”.

Đúng vậy, có thể chia ly cách xa về địa lý, về không gian, nhưng không thể chia ly về khát khao lý tưởng, niềm tin vào ngày chiến thắng. Và khi thắng trận trở về trong niềm hân hoan chào đón: “Anh về cối lại vang rừng/ Chim reo trên mái gà mừng dưới sân/ Anh về sáo lại ái ân/ Đêm trăng hò hẹn trong ngần tiếng ca” (Tố Hữu). Chính anh đã giữ bình yên cuộc sống, đã truyền thêm sức sống cho thiên nhiên, cảnh vật, con người. Đó cũng chính là một trong những cách lý giải về sức mạnh tinh thần lớn lao của người lính Việt Nam, của anh “Bộ đội Cụ Hồ”.

Nguyễn Ngọc Phú

Nguồn Biên Phòng: https://bienphong.com.vn/hinh-anh-anh-bo-doi-cu-ho-trong-tho-post498777.html