Hai mốc son lịch sử ở Đà Nẵng

Đúng 11 giờ 30 ngày 29-3-1975, lá cờ Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam tung bay trên nóc Tòa Thị chính và đến 12 giờ 30 cùng ngày, tất cả các mục tiêu quân sự, dân sự của địch tại Đà Nẵng bị ta chiếm giữ hoàn toàn, kết thúc 21 năm trường kỳ kháng chiến chống Mỹ; chấm dứt hơn 1 thế kỷ kháng chiến chống thực dân Pháp và Đế quốc Mỹ xâm lược, giành độc lập dân tộc. Cuộc tiến công giải phóng Đà Nẵng ngày 29-3-1975 đã đi vào lịch sử của dân tộc ta như một bản hùng ca của thời đại Hồ Chí Minh...

* Bài 2: Tiến vào Đà Nẵng

Lực lượng Sư đoàn 2 Quân khu 5 tiến vào Đà Nẵng (ảnh Tư liệu).

Lực lượng Sư đoàn 2 Quân khu 5 tiến vào Đà Nẵng (ảnh Tư liệu).

Căn cứ vào tình hình, tháng 12-1971, Đặc Khu ủy Quảng Đà (ĐKUQĐ) mở Hội nghị bàn nhiều vấn đề quan trọng cho mặt trận đồng thời quyết định chuyển trụ sở của ĐKUQĐ từ vùng rừng núi Thạnh Mỹ, huyện Giằng xuống đặt đại bản doanh ở núi Hòn Tàu, thuộc xã Duy Sơn, huyện Duy Xuyên. Đây là ngọn núi cao với tổng diện tích ước tính gần 100km2 nối liền giữa 3 huyện: Duy Xuyên, Quế Sơn và Hiệp Đức. Trước khi chuyển trụ sở, ĐKUQĐ chỉ đạo các ban, ngành, đoàn thể, tổ chức chính trị phải để lại một số cán bộ, chiến sĩ, nhân viên lo tăng gia, sản xuất, cung cấp lương nhu nhằm phục vụ trước mắt và lâu dài cho ĐKUQĐ. Khi mới xuống Hòn Tàu, cơ quan ĐKUQĐ đóng ở Cù Hang rồi sau chuyển tiếp đến khu vực Mặt Rạng, lưng chừng núi Hòn Tàu. Một thời gian ngắn, thấy vị trí trụ sở có phần bất tiện, ĐKUQĐ quyết định dời đến vị trí phía bắc khu vực Đồi Lon, bởi nơi đây thuận lợi về giao thông, dễ liên lạc với Văn phòng Khu ủy Khu 5 và Tư lệnh Quân khu 5 hơn. Từ ngày đó, núi Hòn Tàu bắt đầu có nhiều trụ sở, cơ quan, ban ngành trực thuộc ĐKUQĐ chiếm đóng.

Sau Hiệp định Paris, tình hình địch có chuyển biến khác, chúng củng cố lại bộ máy đàn áp, bởi kẻ thù ngông cuồng, không tuân thủ những điều khoản cam kết theo Hiệp định, tiếp tục đánh phá ngày càng ác liệt hơn. Đêm 28-7-1974, Trung đoàn 66, Sư đoàn 304 và Trung đoàn 3, Sư đoàn 324 quân giải phóng được điều từ Cam Lộ, Quảng Trị vào phối hợp với bộ đội Quân khu 5 và quân, dân địa phương mở màn trận tấn công Chi khu Thượng Đức của địch tại vùng tây huyện Đại Lộc. Sau 3 đợt chiến đấu giành giật cực kỳ ác liệt, ngày 7-8-1974, cứ điểm phòng thủ kiên cố bậc nhất cho căn cứ liên hợp quân sự Đà Nẵng này bị đập nát hoàn toàn. Nhận lệnh của Khu ủy Khu 5 và Tư lệnh Quân khu 5 chuẩn bị tấn công giải phóng TP Đà Nẵng, các đơn vị quân giải phóng và lực lượng Ban An ninh Đặc khu Quảng Đà luôn trong tư thế sẵn sàng chiến đấu. Bộ Tư lệnh chiến dịch Khu 5 lúc này là Trung tướng Lê Trọng Tấn - Phó Tổng tham mưu trưởng trực tiếp làm Tư lệnh, Thiếu tướng Chu Huy Mân- Tư lệnh Quân khu 5 làm Chính ủy. Ngày 24-3-1975, Sư đoàn 325, Quân đoàn 2 của ta bắt đầu tấn công Lữ đoàn 258 thủy quân lục chiến và Liên đoàn bảo an 914 của địch tại cánh bắc Hải Vân, chiếm đèo Phước Tượng (Thừa Thiên). Ngày 27-3-1975, đồng chí Võ Chí Công- Phó Bí thư Trung ương Cục miền Nam, Bí thư Khu ủy Khu 5 cùng với bộ phận chỉ huy tiền phương của Khu chuyển đến Hòn Tàu để chỉ đạo một số nhiệm vụ của chiến dịch. Ngày 28-3-1975, Trung đoàn 66, Sư đoàn 304 quân đội ta đánh chiếm quận lỵ Ái Nghĩa, Đại Lộc, sân bay Nước Mặn, Trung đoàn 24 của sư đoàn này tấn công căn cứ quân sự Hòa Cầm. 6 giờ 30 ngày 29-3-1975, Sư đoàn 2, Quân khu 5, Sư đoàn 325, Quân đoàn 2 quân giải phóng đánh chiếm Kho xăng Liên Chiểu, cầu Nam Ô, cầu Trịnh Minh Thế.

Nhận thấy căn cứ quân sự liên hợp Đà Nẵng sắp bị thất thủ, lúc 9 giờ 30 ngày 29-3-, Trung tướng Ngô Quang Trưởng - Tư lệnh Quân đoàn 1 ngụy được một chiếc trực thăng chở xuống tàu HQ 404 tại cảng Đà Nẵng trốn chạy. Các đơn vị quân giải phóng tiếp tục mở đường cho xe tăng tiến ra bán đảo Sơn Trà để trấn giữ cảng Đà Nẵng.

Hướng tây bắc, lúc 10 giờ cùng ngày, Trung đoàn 9, Sư đoàn 304 quân giải phóng tấn công Sư đoàn 3 và các căn cứ quân sự của địch tại Phước Tường, Hòa Khánh. Sư đoàn 2 Quân khu 5 đánh chiếm Bộ chỉ huy Quân đoàn 1 ngụy. Đúng 11 giờ 30 ngày 29-3, lá cờ Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam tung bay trên nóc Tòa Thị chính và đến 12 giờ 30 cùng ngày, tất cả các mục tiêu quân sự, dân sự của địch tại Đà Nẵng bị ta chiếm giữ hoàn toàn. Theo các phương án tác chiến, lực lượng quân đội chiếm giữ ngay các căn cứ quân sự chủ lực của địch như trụ sở Tư lệnh Quân đoàn 1, các sân bay, bến cảng, hải quân… Riêng lực lượng Ban An ninh đặc khu Quảng Đà và một bộ phận An ninh Khu 5 chiếm giữ Nha Cảnh sát Vùng I chiến thuật, Trụ sở quốc dân đảng, Tòa Thị chính, Trại thẩm vấn Thanh Bình, Ty Cảnh sát quốc gia, Trụ sở CIA, Trụ sở Tổng lãnh sự quán Mỹ, Đài Phát thanh, ngân hàng, trụ sở quân tiếp vụ…

17 giờ ngày 29-3, các đồng chí Võ Chí Công, Hồ Nghinh, Ủy viên Ban Thường vụ Khu ủy Khu 5, Trần Thận, Bí thư Đặc Khu ủy Quảng Đà cùng với bộ phận tiền phương Đặc khu Quảng Đà vào nội thành. Sau khi hội ý, các đồng chí quyết định triển khai một số nhiệm vụ cấp bách nhằm lập lại trật tự thành phố, bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân dân và cũng ngay trong chiều này, những cánh quân còn lại trực thuộc các Sư đoàn 2, 404,324,325 và Lữ đoàn thiết giáp 203 của quân đội ta lần lượt tiến vào nội thành để thiết lập vững chắc nền quân quản. Sáng 30-3-1975, Ủy ban Quân quản thành phố Đà Nẵng được thành lập do đồng chí Hồ Nghinh làm Chủ tịch, ra tuyến bố: Xóa bỏ các cấp chính quyền ngụy, giải tán các đảng phái phản động, thành lập UBND cách mạng lâm thời các phường, khóm, ra lệnh giới nghiêm trong thành phố từ 18 giờ hôm trước đến 6 giờ sáng hôm sau, yêu cầu các sĩ quan, binh lính và nhân viên ngụy quyền các cấp phải ra khai báo, trình diện, giao nộp vũ khí trong các ngày 30, 31-3. Theo hồ sơ ta nắm được, Đà Nẵng có hơn 10 vạn sĩ quan, binh lính, các đảng phái phản động, viên chức dân sự trong bộ máy đàn áp của địch nên lực lượng Ban An ninh đặc khu Quảng Đà đã thiết lập 28 điểm trên địa bàn thành phố để đăng ký trình diện, lập ngay 21 trạm kiểm soát tại 21 đồn, bốt cảnh sát ngụy để giữ gìn trật tự công cộng, thành lập ngay 2 tiểu đội an ninh vũ trang để bảo vệ kho gạo trên đường Lý Thường Kiệt nhằm giải quyết nhu cầu lương thực cho nhân dân và bảo vệ an toàn ngân hàng địch vừa tiếp quản. Công tác kêu gọi ra trình diện với chính quyền cách mạng được lực lượng an ninh triển khai liên tục trong những ngày tiếp theo…

Cuộc tiến công giải phóng TP Đà Nẵng ngày 29-3-1975 đã đi vào lịch sử của dân tộc ta như một bản hùng ca của thời đại Hồ Chí Minh…

Thái Mỹ

Nguồn CAĐN: https://cadn.com.vn/hai-moc-son-lich-su-o-da-nang-post310518.html
Zalo