Góp ý dự thảo văn kiện Đại hội Đảng XIV: Giá trị cốt lõi của nguồn vốn con người
Thực tế cho thấy nguồn lực con người được xem là tài sản quan trọng và bền vững nhất của bất kỳ nền kinh tế nào. Ở đó niềm tin đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong vốn con người, tạo nền tảng cho các yếu tố then chốt khác như sự tin tưởng, động lực và mục đích để thúc đẩy hiệu suất và đổi mới.

TS Đoàn Duy Khương
Có thể nói, tất cả mọi người đều công bằng trước chu kỳ quy luật của tạo hóa "sinh, lão, bệnh, tử". Tuy nhiên, sự khác biệt làm nên giá trị cốt lõi lớn nhất của con người là niềm tin mạnh mẽ vào những sự thật và sản phẩm chất lượng làm chúng ta sản sinh ra phẩm chất sáng tạo đổi mới để đạt được mục đích "chân, thiện, mỹ" trong tất cả giai đoạn của chu kỳ vòng đời dẫn đến sự phát triển bền vững của loài người.
Khi con người mất lòng tin trong cuộc sống có thể dẫn đến việc người dân tuân thủ pháp luật kém hơn, sự gắn kết xã hội suy giảm và sự tham gia vào đời sống công dân giảm sút, cản trở khả năng giải quyết các thách thức dẫn đến lợi ích nhóm và mất niềm tin vào chính hệ thống công bằng, dân chủ. Kết quả là quốc gia rơi vào vòng luẩn quẩn của sự chênh lệch giàu nghèo hoặc cạm bẫy phát triển trung bình…
Ở chiều ngược lại, niềm tin dẫn đến sự đoàn kết dựa trên sự chia sẻ mục đích chung, nhận thức về sự công bằng về lợi ích của các chủ thể kinh tế xã hội. Niềm tin sẽ đạt được khi các nguồn lực quốc gia được sở hữu, sử dụng, khai thác, bảo tồn và phát triển để các giá trị hiện hữu và giá trị gia tăng của chúng phải được định lượng và chia sẻ (shared values) công khai, công bằng và minh bạch trong cộng đồng.
Sức mạnh niềm tin từ thực tiễn xây dựng, phát triển đất nước
Ở Việt Nam, trong cuộc kháng chiến bảo vệ Tổ quốc: Độc lập và tự do là mục đích và giá trị chung nên các nguồn lực được tập trung hết một cách tự nhiên với sự tự nguyện của tất cả các chủ thể nhằm đem lại giải phóng và thống nhất dân tộc… Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí minh với bản Tuyên ngôn độc lập bất hủ năm 1945 và khẩu hiệu "Không có gì quý hơn độc lập, tự do" đã đem lại một niềm tin vào tương lai tốt đẹp và để rồi lãnh đạo dân tộc đang chìm đắm trong nghèo khổ của chế độ phong kiến và thuộc địa đứng lên, đi hết từ thắng lời ngày đến thắng lợi khác và cuối cùng là giải phóng Miền Nam và thống nhất đất nước năm 1975.
Khi đất nước bước vào giai đoạn xây dựng và phát triển, với mục đích độc lập tự do đã đạt được và gần như được mặc định (default) thì một môi trường xã hội mới hình thành cần có môi trường pháp lý toàn diện và bình đẳng hơn đảm bảo các nguồn lực kinh tế - xã hội được bảo vệ, chia sẻ, sử dụng và phát triển công bằng giữa các chủ thể. Chính vì vậy, cơ chế kế hoạch hóa mang tính chất bình quân thời chiến được áp dụng sau khi đất nước thống nhất đã trở nên lạc hậu và cản trở phát triển. Tuy nhiên, điều may mắn của đất nước là ngay trong thời kỳ khó khăn đó của đất nước, thì chúng ta vẫn có niềm tin mãnh liệt vào lãnh tụ Hồ Chí Minh với lời dạy: "Việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh".
Với niềm tin tuyệt đối đó vào Đảng, đúng vào lúc cuộc sống đất nước trong thời kỳ tiền đổi mới đầy khó khăn và thách thức đã xuất hiện các ý tưởng "xé rào" và thí điểm giao ruộng khoán ở Phú Thọ (Vĩnh Phúc cũ) cho từng hộ nông dân trong việc đột phá cơ chế, phát huy nguồn lực con người để nâng cao năng suất và đời sống người dân. Và điều kỳ diệu "khoán chui" của các cá nhân con người đơn lẻ, bình dị và dũng cảm ấy đã được nhân lên thành nguồn lực xã hội to lớn trong thể chế kinh tế mới của Đảng thông qua Nghị quyết 24 năm 1980 của Ban Thường vụ Thành ủy Hải Phòng về khoán sản phẩm nông nghiệp. Hải Phòng đã thực hiện thành công mô hình đột phá kinh tế này, để rồi không lâu sau, Ban Bí thư ra Chỉ thị số 100 năm 1981, công nhận khoán sản phẩm làm nền tảng pháp lý phát triển nền nông nghiệp cả nước.

Từ không đảm bảo an ninh lương thực, Việt Nam đã bứt phá vươn lên, trở thành một trong những nước xuất khẩu sản phẩm nông sản hàng đầu thế giới. Ảnh: Đại Hoàng
Trong công cuộc đổi mới kinh tế lần thứ nhất đó, Việt Nam đã không chỉ thoát nghèo đói và từng bước bảo đảm an ninh lương thực mà còn nhanh chóng trở thành quốc gia xuất khẩu sản phẩm nông sản hàng đầu trên thế giới. Sự đột phá và thành công của ngành sản xuất nông nghiệp đã lan tỏa sang các ngành khác hướng tới nền kinh tế thị trường dựa vào xuất khẩu…, là nền tảng cho lý luận và thực tiễn phát triển nguồn lực con người và xã hội cũng như hội nhập kinh tế quốc tế của cả nước…
Thực tiễn lịch sử xây dựng và phát triển đất nước đó của Việt Nam một lần nữa đã chứng minh con người là nguồn lực quan trọng nhất trong các nguồn lực quốc gia và niềm tin là điều cốt lõi của sức mạnh nguồn lực con người. Tuy nhiên, niềm tin đó chỉ có ở một xã hội với những thông điệp, tấm gương và hành động tốt đẹp của lãnh đạo, của môi trường văn hóa, chính trị xã hội hướng tới sự công bằng, minh bạch và lợi ích của dân tộc. Đó sẽ là mảnh đất lành tự do và dân chủ đem lại sự đổi mới, sáng tạo để xuất hiện những con người, những cán bộ dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm và là sự khởi đầu cho các mô hình tăng trưởng và đột phá mới thay đổi mô hình cũ lạc hậu đảm bảo cho thành công phát triển đất nước. Điều đó cũng phần nào minh chứng vì sao Giải Nobel Kinh tế 2025 đã được trao cho mô hình đổi mới "đột phá sáng tạo" (creative destruction) là động cơ tăng trưởng ngay cả trong nền kinh tế của kỷ nguyên công nghiệp 4.0.
Hiện nay, công cuộc đổi mới toàn diện đất nước do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo, bắt đầu từ Đại hội VI (1986) đến Đại hội XIV (2026) vừa tròn 40 năm. Kinh tế Việt Nam duy trì tốc độ phát triển tương đối nhanh, trở thành nước đang phát triển, có mức thu nhập trung bình. Nền kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, các cân đối lớn được bảo đảm. 3 đột phá chiến lược được thực hiện đồng bộ, trọng tâm, trọng điểm, đạt kết quả nổi bật, tạo nền tảng và động lực mới thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Nền hành chính quốc gia được cải cách theo hướng chuyên nghiệp, hiện đại với sự sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị theo hướng tinh, gọn, mạnh, hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả đã đạt được những kết quả mang tính đột phá.
Tuy nhiên, nền kinh tế vẫn dựa vào xuất khẩu nông sản, nguyên liệu thô và sản phẩm gia công… đang đứng trước nguy cơ tụt hậu, khả năng rơi vào bẫy thu nhập trung bình còn lớn do năng suất lao động, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh còn thấp, trình độ khoa học và công nghệ và nhân lực chất lượng cao còn nhiều hạn chế. Ngoài ra, nền kinh tế thị trường phát triển còn nhỏ lẻ, chưa thực sự cạnh tranh lành mạnh, công bằng và thiếu các sản phẩm có sức cạnh tranh về quy mô kinh tế (Economies of scale). Hơn nữa, việc sử dụng và tích lũy phát triển các nguồn lực quốc gia còn thiếu hiệu quả đồng bộ và sự tập trung.
"Không thể để bộ máy mỗi người đi một hướng"
Nhằm hoàn thiện và phát triển thể chế kinh tế thị trường toàn diện trong kỷ nguyên mới, với những dấu chỉ tích cực ban đầu của công cuộc đổi mới lần thứ hai, cần lắm sự xây dựng một Nhà nước pháp quyền đảm bảo một niềm tin của toàn Đảng, toàn dân vào một tương lai tương sáng của dân tộc và làm nền tảng cho sự xuất hiện những nguồn lực nhân tài mới với những ý tưởng đổi mới sáng tạo đi cùng với các mô hình thể chế kinh tế phát triển mới. Và chắc chắn, Văn kiện của Đại hội Đảng XIV sắp tới của Đảng sẽ là nơi khởi đầu cho những chương trình và mô hình kinh tế thực sự nổi bật cho sự đổi mới sáng tạo đó.

Trung tâm Phục vụ hành chính công xã Chi Lăng, Lạng Sơn, phục vụ người dân làm thủ tục hành chính theo mô hình chính quyền địa phương 2 cấp. Ảnh: Quốc Đạt
Trong hoàn cảnh nào cũng vậy, nhất là trong thời khắc vận mệnh, niềm tin luôn mang đến cho chúng ta động lực tinh thần vô giá để vượt qua mọi thách thức và là điều cốt lõi trong sự phát triển nguồn lực con người. Đặc biệt, trong kỷ nguyên số, niềm tin con người khi có được, sẽ ngày càng được lan tỏa đi với tốc độ và quy mô sâu rộng chưa có tiền lệ, đem lại sức mạnh và nguồn lực vô song trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội.
Tuy nhiên, chỉ niềm tin thôi là chưa đủ, nó phải song hành với một nhà nước pháp luật với sự quản trị hiệu quả toàn diện các nguồn lực thành sức mạnh cộng hưởng vô cùng mạnh mẽ thì niềm tin đó mới thực sự thúc đẩy đổi mới sáng tạo và đem lại kết quả đột phá tích cực cho sự phát triển bền vững của quốc gia như người đứng đầu của Đảng hiện nay đã định hướng: "Muốn làm tốt, mô hình tổ chức bộ máy và hệ thống quy định pháp luật phải được toàn xã hội đồng lòng thực hiện, không thể để bộ máy mỗi người đi một hướng".
Lịch sử đấu tranh cách mạng của Đảng ta và thành tựu 40 năm đổi mới là minh chứng rõ nhất về kinh nghiệm xây dựng và phát triển lòng tin của toàn dân tộc vào một Đảng tiên phong với những Đảng viên thực sự "là người đầy tớ trung thành" của dân vì sự hòa bình và thịnh vượng đất Việt.






























