Gỡ khó cho hợp tác công tư trong phát triển khoa học, công nghệ

Bộ Tài chính đề xuất nhiều cơ chế, chính sách mới về hợp tác công tư trong phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia.

Vướng mắc, bất cập

Thời gian qua, hợp tác công tư (PPP) trong phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia đã đạt được một số kết quả đáng khích lệ.

Theo Bộ Tài chính, tính đến năm 2025, trong lĩnh vực khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, một số dự án tiêu biểu đã được triển khai theo hình thức PPP.

Theo đó, Hệ thống mạng đấu thầu quốc gia thực hiện theo Hợp đồng xây dựng - Kinh doanh - Chuyển giao (BOT) giữa Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Công ty Cổ phần Hệ thống thông tin FPT. Đây là dự án PPP đầu tiên và duy nhất thuộc lĩnh vực khoa học, công nghệ được triển khai theo pháp luật về PPP cho đến thời điểm hiện nay.

Dự án ViGen là kết quả hợp tác giữa Trung tâm Đổi mới sáng tạo Quốc gia (NIC), Meta và các đối tác để phát triển bộ dữ liệu tiếng Việt mở phục vụ AI.

Dự án ViGen là kết quả hợp tác giữa Trung tâm Đổi mới sáng tạo Quốc gia (NIC), Meta và các đối tác để phát triển bộ dữ liệu tiếng Việt mở phục vụ AI.

Viettel hợp tác với tỉnh Thừa Thiên Huế xây dựng Trung tâm Điều hành đô thị thông minh (Dự án IOC Thừa Thiên Huế), góp phần thúc đẩy quản lý đô thị hiệu quả.

Đến nay, hệ thống pháp luật ưu đãi về phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia bước đầu được ban hành. Đặc biệt, Nghị quyết số 193/2025/QH15 ngày 19/2/2025 của Quốc hội về Thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia quy định: tổ chức chủ trì được tự chủ trong sử dụng tài sản không cần định giá để cho thuê, chuyển giao quyền sử dụng hoặc kinh doanh dịch vụ, mà không cần lập đề án hay báo cáo cấp có thẩm quyền.

Nghị quyết này cũng quy định cơ chế đặc biệt cho nghiên cứu khoa học với việc Nhà nước cấp kinh phí thông qua cơ chế quỹ, miễn trách nhiệm dân sự nếu nghiên cứu không đạt kết quả như dự kiến. Đây là cải cách quan trọng nhằm giảm rủi ro cho nhà đầu tư, khuyến khích sự tham gia của khu vực tư nhân vào các dự án đổi mới sáng tạo.

Tuy nhiên, Bộ Tài chính đánh giá, việc thực hiện các dự án/hoạt động hợp tác PPP trong lĩnh vực khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số còn rất hạn chế, bởi chưa làm rõ vai trò, sự tham gia của các bên trong quan hệ hợp tác giữa Nhà nước và nhà đầu tư trong từng dự án hoạt động. Chưa làm rõ loại hình công trình, hạ tầng cần đầu tư, xây dựng, cũng như sản phẩm khoa học, công nghệ cần phát triển; đối tượng sử dụng kết quả nghiên cứu khoa học, hạ tầng dùng chung, dịch vụ dữ liệu, chuyển đổi số.

Quy định hiện hành cũng chưa làm rõ phương thức hợp tác PPP phù hợp với từng loại công trình, hạ tầng hoặc sản phẩm khoa học, công nghệ. Chưa có cơ chế thực hiện mô hình hợp tác giữa khu vực công (Nhà nước), khu vực tư nhân (doanh nghiệp) và các tổ chức khác (trường đại học, viện nghiên cứu hoặc tổ chức phi chính phủ), nên gây khó khăn cho chuyển giao công nghệ từ phòng thí nghiệm sang sản xuất.

Đề xuất hướng tháo gỡ

Để khắc phục những tồn tại trên, Bộ Tài chính đã đưa ra nhiều đề xuất mới tại Dự thảo Nghị quyết của Chính phủ về cơ chế, chính sách hợp tác công tư trong lĩnh vực phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia.

Về chính sách hỗ trợ, ưu đãi của Nhà nước, Bộ Tài chính đề xuất, đơn vị sự nghiệp công lập thuộc lĩnh vực khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo được miễn nộp tối thiểu 2% doanh thu đơn vị sự nghiệp công lập thu từ hoạt động liên doanh, liên kết để nghiên cứu, phát triển các công nghệ chiến lược, ngoại trừ các khoản thuế, phí, lệ phí khác…

Về cơ chế đặc thù áp dụng cho dự án PPP trong lĩnh vực khoa học và công nghệ, Dự thảo Nghị quyết quy định: Áp dụng tỷ lệ vốn nhà nước tham gia trong dự án PPP đến 70% tổng mức đầu tư để hỗ trợ xây dựng công trình và chi trả kinh phí bồi thường, giải phóng mặt bằng, hỗ trợ, tái định cư; hỗ trợ xây dựng công trình tạm; cho phép áp dụng mức chia sẻ 100% phần chênh lệch giảm giữa doanh thu thực tế và doanh thu trong phương án tài chính khi doanh thu thực tế thấp hơn mức doanh thu trong phương án tài chính; áp dụng cơ chế chấm dứt hợp đồng trước thời hạn khi doanh thu thực tế thấp hơn 50% doanh thu trong phương án tài chính theo yêu cầu của nhà đầu tư.

Về hình thức sử dụng tài sản công để liên doanh, liên kết, Bộ Tài chính đề xuất, đối với liên doanh không hình thành pháp nhân mới, thực hiện theo Nghị quyết số 193/2025/QH15 và Nghị định hướng dẫn. Đối với liên doanh hình thành pháp nhân mới, người đứng đầu đơn vị quyết định sử dụng tài sản và các bên tham gia góp tài sản hoặc vốn để đầu tư. Tài sản tham gia liên doanh, liên kết thuộc về Nhà nước sau khi hết hạn, trừ khi được chia cho các bên theo tỷ lệ đóng góp hoặc bán đấu giá.

Để tập trung phát triển các dự án nghiên cứu có tính rủi ro cao, bảo đảm có quy trình thương mại hóa sản phẩm sau khi nghiên cứu thành công, Bộ Tài chính đề xuất quy định mô hình tài trợ nghiên cứu và phát triển (Contract for Research and Development Agreement – CFRA), áp dụng đối với các dự án hợp tác giữa các viện nghiên cứu, trường đại học, các đơn vị sự nghiệp công lập và doanh nghiệp, nhằm chuyển giao công nghệ và ứng dụng giải pháp vào thực tiễn. Các viện, trường và doanh nghiệp cùng đóng góp vốn, cơ sở vật chất, nhân lực để nghiên cứu, thương mại hóa và chia sẻ lợi nhuận.

Hữu Hòe

Nguồn Tài Chính: http://tapchitaichinh.vn/go-kho-cho-hop-tac-cong-tu-trong-phat-trien-khoa-hoc-cong-nghe.html
Zalo