Giữ gìn ký ức Khởi nghĩa Nam kỳ
Những ngày cuối tháng 11, chúng tôi lần tìm về vùng Hóc Môn (TPHCM) - mảnh đất từng dậy lên khí thế Khởi nghĩa Nam kỳ, cảm giác như những bước chân quả cảm của đêm 22 rạng sáng 23-11-1940 vẫn còn vọng lại đâu đó, không rõ ràng nhưng đủ để làm người đến sau... khựng lại.
Hào khí Nam kỳ trong từng gốc cây, tấc đất
“Đây là khu vực trước kia có ống máng nước mà đồng chí Đỗ Văn Dậy (Chỉ huy trưởng) và các đồng chí khác đã trèo lên tầng trên của đồn Hóc Môn vào đêm 22 rạng sáng 23-11 cách đây 85 năm. Đêm ấy, các cánh quân từ 4 phía tiến thẳng vào đồn Hóc Môn với khí thế sôi sục vô cùng. Tại nơi này, các đồng chí đã dũng cảm chiến đấu, giằng co quyết liệt với quân địch cho đến sáng”, bằng chất giọng ấm áp, nụ cười duyên dáng, chị Nguyễn Thị Bách, phụ trách Di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia Dinh quận Hóc Môn, đưa nhóm đoàn viên thanh niên Công ty CP Thương mại Hóc Môn về lại dấu tích lịch sử năm nào của trận đánh ngày Khởi nghĩa Nam kỳ.

Chị Nguyễn Thị Bách, phụ trách Di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia Dinh quận Hóc Môn, giới thiệu về trận Khởi nghĩa Nam kỳ với các đoàn viên thanh niên. Ảnh: THÁI PHƯƠNG
Phía trước sân Dinh quận Hóc Môn, ngay tại tượng đài Nam kỳ khởi nghĩa những ngày này nghi ngút khói hương. Từng đoàn người đến dâng hương, tham quan tìm hiểu về cuộc Khởi nghĩa Nam kỳ. Không chỉ tại tượng đài các chiến sĩ, nơi có bức phù điêu mô tả lại trận đánh vào Dinh quận Hóc Môn rạng sáng 23-11-1940, cùng các hình ảnh, hiện vật trong Dinh quận mà trong từng góc cây, tấc đất nơi này vẫn như còn lưu giữ hào khí Nam kỳ ngày ấy.
Không chứng kiến trận đánh lịch sử năm ấy, nhưng với thâm niên gần 30 năm làm thuyết trình viên di tích Dinh quận Hóc Môn, khí thế hào hùng của các chiến sĩ như len vào từng hơi thở của ông Nguyễn Văn Lực. “Mỗi khi bước chân vào Dinh quận, tôi như nhìn thấy trước mắt mình trận đánh anh dũng ngày nào của cha ông. Tôi muốn trao truyền để thế hệ trẻ và người dân khi đến đây sẽ hiểu nhiều hơn về cuộc Khởi nghĩa Nam kỳ oai hùng ấy”, ông Lực chia sẻ.
Từ Dinh quận Hóc Môn, chúng tôi ngược về Di tích Lịch sử quốc gia Ngã Ba Giồng (xã Bà Điểm, TPHCM). Trong một buổi trưa giữa tháng 11, chị Dương Tuyền (thuyết minh viên của di tích) xuất hiện trong chiếc áo bà ba mộc mạc, nón lá cùng chiếc khăn rằn thân quen. Từ hình ảnh giản dị ấy, chị đưa khách tham quan bước vào hành trình ngược dòng thời gian, qua những trang tư liệu, hiện vật và những bức ảnh nhuốm màu ký ức, kể về con người, vùng đất của cuộc Khởi nghĩa Nam Kỳ năm 1940.
Sinh ra và lớn lên trên mảnh đất Hóc Môn - Bà Điểm giàu truyền thống cách mạng, chị Tuyền luôn mang trong mình niềm tự hào về quê hương anh hùng. Với chị, được công tác tại Di tích Lịch sử quốc gia Ngã Ba Giồng là vinh dự sâu sắc, như được tiếp nối câu chuyện của thế hệ cha ông ngay trên vùng đất đã nuôi dưỡng mình.
Chị chia sẻ: “Trải qua nhiều giai đoạn lịch sử, Di tích Lịch sử quốc gia Ngã Ba Giồng không chỉ là nơi ghi dấu những sự kiện trọng đại của dân tộc, mà còn là không gian văn hóa - tinh thần - một “thiết chế văn hóa - lịch sử đặc biệt” mang giá trị giáo dục sâu sắc, là “cầu nối giữa hiện vật và công chúng” truyền tải giá trị lịch sử, khơi dậy lòng tự hào dân tộc và ý thức tri ân các Anh hùng liệt sĩ”.
Hiểu hơn giá trị hòa bình
Trong số những “địa chỉ đỏ” còn lưu giữ được hơi thở thời khói lửa, nổi bật nhất là Nhà di tích Nơi họp Hội nghị Xứ ủy Nam Kỳ tháng 9-1940 ở ấp Xuân Thới Đông 3. Nếu không để ý, người ta dễ đi lướt qua vì lối vào nằm nép sau hàng cau, thứ cây quen thuộc của vùng Mười Tám Thôn Vườn Trầu.
Ngôi nhà ba gian này vốn là nhà bà Nguyễn Thị Hương, người đã che chở, bảo vệ cán bộ và sau đó hiến tặng toàn bộ cho Nhà nước để giữ lại một dấu mốc quan trọng của cách mạng. Tại đây, từ ngày 21 đến ngày 23-9-1940, dưới sự triệu tập của đồng chí Tạ Uyên, Bí thư Xứ ủy Nam Kỳ, Hội nghị Xứ ủy đã bàn bạc, tranh luận, rồi đi đến quyết định chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa. Những căn hầm bí mật được đào quanh nhà, những chiếc trống, mõ, tù và được chuẩn bị để báo động khi cần. Tất cả chỉ nhằm bảo vệ những giờ phút quan trọng nhất, nơi mệnh lệnh khởi nghĩa của toàn Xứ Nam Kỳ được hình thành.

Thuyết minh viên giới thiệu về bức phù điêu tái hiện cảnh quân và dân ta đánh chiếm Dinh quận Hóc Môn đêm 22 rạng sáng 23-11-1940 do đồng chí Phạm Văn Sáng, Bí thư Quận ủy lãnh đạo. Ảnh: CẨM TUYẾT
Trong căn phòng nhỏ, tượng các đồng chí Võ Văn Tần, Nguyễn Thị Minh Khai, Trần Văn Mười, Nguyễn Văn Một… được đặt trang nghiêm. Bên cạnh là mô hình căn nhà gỗ khi xưa, sa bàn Mười Tám Thôn Vườn Trầu và những bức ảnh đen trắng về các cơ sở nuôi giấu cán bộ. Hiện vật không nhiều, nhưng mỗi thứ đều có câu chuyện riêng. Chiếc trống Nam Lân đặt trong tủ kính là vật báo hiệu quan trọng của Hội nghị, chỉ cần một tiếng trống vang lên, cả khu vực sẽ chuyển ngay sang tình thế ứng phó.
Nhiều năm qua, di tích trở thành điểm về nguồn quen thuộc của các đoàn thể, trường học. Trẻ con háo hức nghe kể chuyện lịch sử ngay tại nơi từng là chỗ bàn việc lớn. Người già thì lặng lẽ đứng trước tượng Bác, nhớ lại những năm tháng cả vùng Hóc Môn, Gò Môn sục sôi. Những giá trị ấy là thứ không thể đong đếm, di tích không chỉ là căn nhà cũ, mà là nơi ngòi pháo cho cuộc khởi nghĩa đã châm lên, là nơi lá cờ đỏ sao vàng, vốn là cờ khởi nghĩa, được xác lập, để rồi trở thành quốc kỳ thiêng liêng của nước Việt Nam hôm nay.
Rời khỏi các di tích, bước ra giữa đời sống hiện tại, nhà cao tầng, phố xá rộn ràng, chúng tôi tự hỏi, nếu không có những di tích này, không có những nghĩa trang liệt sĩ nằm yên bao năm qua, thì chắc gì hôm nay chúng ta được sống những ngày bình yên. Và rồi chúng tôi thấy rõ hơn giá trị của việc giữ gìn dấu tích, những địa danh này không chỉ là “nhà cũ”, mà là lời nhắc nhở nhẹ nhàng rằng tự do, bình yên, sự phát triển hiện hữu hôm nay đều được xây dựng từ những con người đã chọn “không lùi bước” ở những đêm khuya tập trận và trong những buổi họp kín...
Những ngày này, không khí tại Di tích Đình Long Hưng, xã Long Hưng, tỉnh Đồng Tháp đặc biệt hơn thường lệ. Trên tán cây bàng cổ thụ trước sân đình, Quốc kỳ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đang tung bay. Chính tại cây bàng này, cách đây 85 năm, lá cờ đỏ sao vàng đầu tiên của nước ta được treo cao, sau đó trải rộng, phấp phới khắp Nam kỳ trong những ngày sục sôi khí thế cách mạng.
Cây bàng vẫn sừng sững ở đó, trở thành vật chứng cho lịch sử hào hùng của vùng đất này. Ngày 23-11-1940, thực hiện mệnh lệnh khởi nghĩa của Xứ ủy Nam Kỳ, Tỉnh ủy Mỹ Tho tổ chức cuộc khởi nghĩa tại địa phương. Trước sự chứng kiến của hơn 3.000 đồng bào, chính quyền cách mạng Mỹ Tho ra mắt, trở thành chính quyền cách mạng cấp tỉnh đầu tiên trên cả nước.
Đình Long Hưng được chọn làm trụ sở, và lần đầu tiên danh xưng “Việt Nam Dân chủ Cộng hòa quốc” xuất hiện trên một tấm biểu ngữ treo ngay mặt tiền ngôi đình. Đến nay, Di tích Đình Long Hưng vẫn còn lưu giữ nhiều chứng tích lịch sử minh chứng cho tinh thần đấu tranh kiên cường của người dân địa phương trong khởi nghĩa Nam kỳ và các phong trào yêu nước.
Theo PGS-TS Hà Minh Hồng, Phó Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử TPHCM, nguyên Trưởng khoa Lịch sử Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, khởi nghĩa Nam Kỳ là một trong những cuộc khởi nghĩa vũ trang đầu tiên dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, đánh dấu bước trưởng thành quan trọng của phong trào cách mạng ở Nam kỳ và cả nước khi chiến tranh thế giới lần thứ 2 nổ ra. Tuy chưa thể giành thắng lợi vì có nhiều yếu tố khách quan chi phối, nhưng chính thất bại ấy đã đặt ra cho Đảng ta và Xứ ủy Nam Kỳ những bài học rất cấp bách và thiết thực.
PGS-TS Hà Minh Hồng cho rằng, nếu không có những tổn thất, hy sinh, không có “bài học chưa thành công” từ khởi nghĩa Nam Kỳ, thì rất khó có được sự chín chắn, bản lĩnh, kiên quyết và quyết đoán của Đảng trong Cách mạng Tháng Tám.
Tấm gương của những người cộng sản, như: Nguyễn Văn Cừ, Phan Đăng Lưu, Võ Văn Tần, Nguyễn Thị Minh Khai và nhiều chiến sĩ cách mạng khác… chính là tiền đề để sau này có những lớp người dũng cảm trong Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945, trong kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, để có một thành phố luôn đi trước, đi đầu trong nhiều phong trào cách mạng, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Theo PGS-TS Hà Minh Hồng, tinh thần to lớn mà cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ để lại chính là dám nghĩ, dám làm và dám chịu trách nhiệm, thận trọng và táo bạo thúc đẩy phong trào cách mạng chung của cả nước. Tinh thần ấy đòi hỏi ở mỗi cá nhân, nhất là đội ngũ cán bộ trong giai đoạn hiện nay.
Ngày nay, trong điều kiện hòa bình, xây dựng và hội nhập, yêu cầu “dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm” vẫn mang ý nghĩa thời sự nóng hổi. Trong phát triển kinh tế - xã hội, trong hội nhập quốc tế, đòi hỏi đội ngũ cán bộ các cấp, đoàn viên, thanh niên, các tổ chức chính trị - xã hội phải kế thừa và phát huy tinh thần mưu trí, linh hoạt, sáng tạo, dám hành động vì lợi ích chung.
































