Gìn giữ điệu xưa

Lạng Sơn sở hữu đa dạng các loại hình dân ca, dân vũ của đồng bào các dân tộc và được lưu truyền đến nay. Thời gian qua, các cấp, ngành, địa phương trong tỉnh đã và đang tích cực bảo tồn, gìn giữ, phát huy giá trị để dân ca, dân vũ ngày càng khẳng định được sức sống trong xã hội hiện đại.

Tiết mục hát then, múa chầu đặc sắc tại lễ hội Lồng tồng làng Khòn Lèng, thành phố Lạng Sơn năm 2025

Tiết mục hát then, múa chầu đặc sắc tại lễ hội Lồng tồng làng Khòn Lèng, thành phố Lạng Sơn năm 2025

Dân ca, dân vũ đều là những loại hình nghệ thuật truyền thống, mang đậm bản sắc văn hóa của cộng đồng, nhưng có sự khác biệt về hình thức thể hiện. Dân ca là các bài hát, khúc ca truyền thống, còn dân vũ là những điệu nhảy, múa được lưu truyền trong dân gian. Đây được coi là những di sản văn hóa quý giá, tạo nên giá trị và bản sắc của mỗi dân tộc ở Lạng Sơn, nó phản ánh sức sáng tạo của cộng đồng cư dân trong việc tạo dựng cuộc sống và vun đắp giá trị tinh thần qua nhiều thế hệ.

Dòng chảy văn hóa truyền thống đặc sắc

Trên mảnh đất Lạng Sơn, nơi hội tụ của nhiều tộc người và bản sắc văn hóa lâu đời, dân ca, dân vũ đã ăn sâu vào đời sống, trở thành “món ăn tinh thần” đặc sắc trong các nghi lễ và sinh hoạt thường nhật. Tiêu biểu như hát then đàn tính, múa sư tử mèo của đồng bào Tày, Nùng; hát páo dung của đồng bào Dao... Trải qua thăng trầm, những lời ca, điệu múa ấy không chỉ phản ánh tâm tư, tình cảm của con người mà còn là tấm gương phản chiếu lịch sử của vùng đất Lạng Sơn giàu bản sắc.

Di sản “thực hành then” của người Tày, Nùng Lạng Sơn là loại hình diễn xướng dân gian tổng hợp vừa phục vụ đời sống tâm linh vừa đáp ứng nhu cầu nghệ thuật của Nhân dân trên địa bàn tỉnh. Hiện nay, toàn tỉnh có hơn 600 nghệ nhân thực hành then, trong đó có 34 nghệ nhân được phong tặng nghệ nhân nhân dân, nghệ nhân ưu tú với hai loại hình: tập quán xã hội và tín ngưỡng; nghệ thuật trình diễn dân gian. Với những giá trị nghệ thuật độc đáo của mình, Then đã góp phần hun đúc tâm hồn, tình cảm và ý chí, khát vọng vươn lên, xây đắp cuộc sống ấm no, hạnh phúc của đồng bào các dân tộc Tày, Nùng, được trao truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác.

Nghệ nhân ưu tú Bế Thị Vẩn, thôn Nà Ván, xã Tri Phương, huyện Tràng Định, người đã có trên 70 năm thực hành then cổ chia sẻ: Một trong những điểm đặc sắc của then là ngôn ngữ ẩn chứa chiều sâu văn hóa. Nội dung các khúc hát then đều toát lên tư tưởng nhân văn sâu sắc, chứa đựng tình yêu thiên nhiên, tình yêu đôi lứa, nghĩa vợ chồng, răn dạy đạo lý làm người, ca ngợi làng bản, quê hương...

Khác với hát then, hát sli lại gắn bó với những cuộc vui, lao động sản xuất hàng ngày của đồng bào dân tộc Nùng. Sli trong tiếng Nùng nghĩa là “thơ”, hát sli là hình thức hát giao duyên thể hiện qua các câu thơ, được biểu diễn dưới dạng đối đáp các cặp nam nữ. Thông thường sli có 3 lối hát cơ bản là hát nói (đọc thơ); xướng sli (ngâm thơ) và dằm sli hoặc nhằm sli (lên giọng hát). Ở Lạng Sơn hiện nay phổ biến có những làn điệu sli như Nùng Cháo có sli slình làng, Nùng Phàn Slình có sli sloong hao, Nùng Inh có Sli Inh, Nùng An có hát hèo phưn. Năm 2019, hát sli của người Nùng tỉnh Lạng Sơn đã được đưa vào Danh mục DSVH phi vật thể quốc gia theo Quyết định số 2966/QĐ-BVHTTDL của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (VHTT&DL). Hiện nay, vào những phiên chợ Kỳ Lừa và mỗi dịp lễ, tết, những câu sli vẫn được vang vọng bởi những người yêu dân ca giữa nhịp sống hối hả của đô thị giữa trung tâm thành phố Lạng Sơn.

Tiếp nối giữa nhịp sống hiện đại

Trước nguy cơ mai một từ tốc độ đô thị hóa và sự lấn át của văn hóa nghe nhìn hiện đại, để bảo tồn, phát huy giá trị của các làn điệu dân ca, dân vũ truyền thống, thời gian qua, ngành VHTT&DL tỉnh đã có nhiều giải pháp tích cực.

Ông Lưu Bá Mạc, Phó Giám đốc Sở VHTT&DL cho biết: Trên cơ sở bám sát các văn bản chỉ đạo của trung ương, của tỉnh, chúng tôi đã và đang tích cực triển khai nhiều biện pháp như: đẩy mạnh tuyên truyền, tập huấn; rà soát, kiểm kê và lập danh mục các loại hình dân ca, dân vũ, dân nhạc của các dân tộc thiểu số; nghiên cứu, xây dựng cơ sở dữ liệu về di sản văn hóa phi vật thể của các dân tộc thiểu số…; lấy di sản văn hóa các dân tộc, đặc biệt là dân ca, dân vũ làm nền tảng, động lực để phát triển du lịch; tăng cường tổ chức các chương trình, sự kiện văn hóa, du lịch nhân dịp các ngày lễ lớn của tỉnh, đất nước, trong đó ưu tiên phần biểu diễn các tiết mục hát sli, then và trình diễn di sản các dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh...

Theo đó, từ năm 2016 đến nay, Sở VHTT&DL đã chủ trì, phối hợp với UBND các huyện, thành phố tổ chức lớp tập huấn tuyên truyền, phổ biến và thực hiện Luật DSVH và các văn bản liên quan tới 11/11 huyện, thành phố cho hàng nghìn lượt người. Bên cạnh đó, thực hiện Dự án 6 thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 - 2030, từ năm 2022 đến nay, Sở VHTT&DL đã phối hợp với ngành chức năng, chính quyền các huyện, thành phố tích cực triển khai thực hiện một số tiểu dự án thành phần. Bên cạnh đó, trên địa bàn tỉnh đã thành lập trên 12 câu lạc bộ văn nghệ quần chúng theo mô hình sinh hoạt văn hóa dân gian dân tộc, truyền dạy các kiến thức, thực hành trình diễn một số loại hình sinh hoạt văn hóa dân gian... góp phần làm phong phú thêm hoạt động văn hóa, văn nghệ quần chúng tại các huyện, thành phố trên địa bàn tỉnh.

Ngoài ra, những năm gần đây, các loại hình dân ca, dân vũ, trò chơi dân gian đã được sử dụng làm chất liệu để dàn dựng, sáng tác các tiết mục nghệ thuật chuyên nghiệp. Theo đó, đội ngũ đạo diễn, biên đạo của Đoàn Nghệ thuật Dân tộc tỉnh đã dành nhiều thời gian đi thực địa ở bản làng đồng bào dân tộc để nghiên cứu, sưu tầm dân ca, dân nhạc, dân vũ truyền thống dân gian đặc sắc, các lễ hội đặc trưng, tạo chất liệu nền cho sáng tạo các tác phẩm biểu diễn nghệ thuật chuyên nghiệp.

Tiêu biểu như tiết mục múa “lảy cỏ” với hình ảnh những chàng trai, cô gái người Nùng Lạng Sơn duyên dáng trong trò chơi dân gian truyền thống được khán giả đón nhận tại lễ hội Háng Pò, xã Thiện Thuật, huyện Bình Gia vào tháng 5/2024. Tiết mục thể hiện tình cảm đôi vợ chồng người Nùng, phản ánh đời sống thường nhật của người dân lao động, giúp người dân, đặc biệt là thế hệ trẻ hiểu hơn về văn hóa của dân tộc Nùng Phàn Slình.

Bà Hoàng Thị Hà, Trưởng Đoàn Nghệ thuật Dân tộc tỉnh cho biết: chúng tôi đã và đang quan tâm bồi dưỡng, nâng cao năng lực chuyên môn cho đội ngũ nghệ sỹ, diễn viên; tập trung vào việc nghiên cứu, sưu tầm chất liệu các loại hình nghệ thuật dân gian truyền thống của các dân tộc trên địa bàn tỉnh để đưa vào sáng tác, biên đạo các tác phẩm nghệ thuật mang đậm bản sắc dân tộc. Đồng thời, không ngừng sáng tạo, tạo ra những tác phẩm nghệ thuật mới, kết hợp hài hòa giữa truyền thống và hiện đại, đáp ứng nhu cầu thưởng thức ngày càng cao của khán giả.

Hành trình gìn giữ những di sản văn hóa của Lạng Sơn, trong đó có dân ca, dân vũ không chỉ là việc bảo tồn một loại hình nghệ thuật, mà sâu xa hơn là gìn giữ ký ức cộng đồng, bản sắc dân tộc và niềm tự hào văn hóa của một vùng đất. Trong dòng chảy đổi thay không ngừng của thời đại, sự hồi sinh và lan tỏa mạnh mẽ của những giá trị dân gian ấy là minh chứng sinh động cho sức sống mãnh liệt của di sản văn hóa, bởi lẽ “văn hóa còn thì dân tộc còn”.

ĐỨC TÂM

Nguồn Lạng Sơn: https://baolangson.vn/suc-song-di-san-giua-nhip-song-hien-dai-5049174.html
Zalo