Giấy rách giữ lấy lề

Trong đời thường, từ chỗ không quen biết nhau, khi giao dịch mua bán gì đó, ông bà ta bảo: 'Giấy trắng mực đen làm quen thiên hạ'. Muốn gì muốn, không thể, 'Đinh minh hai miệng một lời song song' (Truyện Kiều), chỉ giao kèo bằng miệng mà cần phải có giấy tờ đâu ra đó, buộc người ta tin nhau, sau đó, dẫu có thay lời đổi ý muốn nuốt lời/ lật kèo cũng không thể. Nói tắt một lời, giấy không thể thiếu trong sinh hoạt, đời sống của người Việt.

1. "Mịt mù khói tỏa ngàn sương/ Nhịp chày Yên Thái, mặt gương Tây Hồ". Vùng đất Kẻ Bưởi phía tây bắc thành Thăng Long ngày đêm vang lên "nhịp chày" tức là tiếng chày giã giấy. Mãi đến cuối thế kỷ XVIII, thi sĩ Nguyễn Huy Lượng còn thấy sảng khoái, xúc cảm khi đưa hoạt động của nghề làm giấy vào trong bài phú nổi tiếng: "Chày Yên Thái nện trong sương chểnh choảng; Lưới Nghi Tàm ngăn ngọn nước quanh co".

Nhìn từ bàn thờ gia tiên, dù thế nào người Việt cũng vẫn giữ lấy lề - ảnh tư liệu.

Nhìn từ bàn thờ gia tiên, dù thế nào người Việt cũng vẫn giữ lấy lề - ảnh tư liệu.

Có mấy từ liên quan về nghề làm giấy cổ truyền, tưởng cũng nên cần biết qua, thí dụ "seo giấy": Sau khi giã, người ta đem bột dó đã giã nhuyễn cho vào những chảo lớn - gọi là "tàu seo", rồi quấy thật đều và đổ thêm nước nhớt của cây mỏ để tạo chất kết dính. Bây giờ, người thợ là "thợ seo" tiến hành tráng bột giấy dó - gọi là "seo giấy" trên một mặt lưới gọi là "liềm seo". “Việt Nam tự điển” (1931) ghi nhận và giải thích: "Seo: Tiếng nghề làm giấy, cho bột giấy vào trong khung mà rùng cho thành tờ giấy".

Chính từ động tác này, ngày trước trong lễ giỗ Tổ nghề giấy, dân làng lấy nồi đồng thật to, đổ mật vào, cho hai thanh niên khỏe mạnh, chưa vợ, cầm vồ khuấy đều để miêu tả công việc đánh bột giấy ở "tàu seo"; rồi cho xôi, đậu rang chín vào nồi nấu thành chè kho. Ngoài ra dân làng còn cho xôi nếp vào cối để giã nhằm diễn lại động tác giã dó. Năm nào chè thơm ngon, bánh dày dẻo trắng thì mọi người tin rằng nghề làm giấy của làng còn phát đạt.

Sau khi đã "seo giấy", người ta còn cầu kỳ trải trên mặt đá và dùng vồ đập, nện cho bóng cho nhẵn - thao tác này trong chuyên môn gọi là "nghè", vì vậy làng nghề Trung Nha ở Nghĩa Đô xưa còn có tên làng Nghè. Địa danh Cầu Giấy ra đời là cũng do nơi này có nghề làm giấy nên chiếc cầu bắc qua sông Tô Lịch được gọi theo tên.

Nghề làm giấy cổ truyền của ta đã đạt đến sự toàn mỹ, chất lượng cao, có thể sánh với giấy của các nước khác. Cho đến nay, có lẽ Nguyễn Tuân là nhà văn trước nhất đã sử dụng từ ngữ một cách chuẩn xác, chọn lọc chu đáo để miêu tả về sản phẩm giấy do chính người Việt làm ra, càng đọc càng thấm thía ý vị:

"Trông đến tờ giấy dó của nhà này là ai cũng biết ngay, chẳng cần phải soi lên mà tìm dấu thương tiêu thủy ấn nữa… Nó nhẵn mặt mà không cứng mình mà chất lại dai và lắm tờ khổ rộng mình dầy, thế mà bắc đồng cân lên thì nặng chỉ như cái lông ngỗng. Mặt giấy xốp, nghiêng giấy ra ánh sáng mà nhìn chất cát dó thì nó như làn da má trinh nữ phẳng đượm chất tuyết của lớp lông măng. Vuốt vào mặt giấy, người ta có cái cảm tưởng được sống là một điều dễ chịu; mùa nực, rờ vào giấy thấy mát cả lòng bàn tay và về tiết đông ấp tay vào giấy, thấy nó âm ấm như có sinh khí. Đưa lên mũi, tờ giấy đượm hơi thơm của một thứ mùi thảo mộc còn tươi sống, thật là một vật quý trên thế gian… Nó đẹp đến nỗi mọi người đều yên trí rằng dẫu đứa thất phu có cầm bút vẽ bậy vào đấy thì những nét lếu láo ấy vẫn cứ thành được hình chữ… Người có chữ nhưng mà văn xoàng và chữ xấu thì đều không nhẫn tâm đè giấy ra mà viết".

Văn chương chữ nghĩa đấy, chỉ đôi dòng nhưng tác giả "Vang bóng một thời" đã gợi cho chúng ta biết bao tình cảm thân thiện, gần gũi về sản phẩm tưởng chừng vô tri vô giác đã trở nên sống động lạ thường.

2. Lại có những câu tục ngữ quen thuộc liên quan đến giấy khiến ta lại không dễ hiểu, xin đơn cử "Giấy rách giữ lấy lề". Từ "lề", ta còn có thể tìm thấy trong câu "Đất lề quê thói", "Đất có lề, quê có thói". Trong biên khảo "Đất lề quê thói", nhà nghiên cứu Nhất Thanh cho rằng, hai từ "lề thói hoàn toàn Việt Nam" thế nhưng dần dà mất dần do "không văn vẻ, không quen tai bằng hai tiếng phong tục" (tr.5), đúng là thế, từ năm 1915 dù cũng viết về lề thói nhưng nhà nghiên cứu Phan Kế Bính lại đặt nhan đề tập sách “Việt Nam phong tục”.

Phong tục là gì?

“Hán - Việt từ điển” của Đào Duy Anh giải thích ngắn gọn: "Thói quen trên xã hội (coutumes)"; “Hán-Việt tân từ điển” của Nguyễn Quốc Hùng cũng cho biết tương tự: "Chỉ chung các thói quen có từ lâu đời trong nếp sống của một vùng, một nước". Nói cách khác đây là nghĩa của từ "lề thói" mà “Việt Nam tự điển” (1931) giải thích chính là "tục lệ".

Với câu tục ngữ "Đất có lề, quê có thói", ông Hùinh Tịnh Paulus Của giải thích: "Đâu đâu cũng có thói tục riêng". Xét ra "lề thói" từ đôi, cả hai cùng nghĩa. "Đất lề quê thói" là một trong những lối cấu trúc quen thuộc của tục ngữ Việt Nam, chẳng hạn, "Ăn chắc mặc bền", "Chải gió gội mưa", "Khôn cậy khéo nhờ"…

Trong "Việt Nam phong tục", nhà nghiên cứu Phan Kế Bính giải thích cụ thể về lề thói/ tục lệ/ phong tục: "Mỗi nước có một phong tục riêng. Phong tục ấy kỳ thủy hoặc bởi tự một vài người mà rồi bắt chước nhau thành ra thói quen. Hoặc bởi ở phong thổ và cách chính trị, cách giáo dục trong nước mà thành ra. Hoặc bởi các phong trào ở ngoài tràn vào rồi mà dần dần tiêm nhiễm thành tục. Nhưng đại để tục gì cũng vậy, phải trải lâu tháng lâu năm mới thành được, mà trong những tục ấy cũng có tục hay, cũng có tục dở. Duy chỉ bởi tai mắt người đã quen, lòng người đã tin dùng, thì dẫu có người biết là dở mà cũng không sao đổi ngay đi được".

Khi nói "Giấy rách giữ lấy lề", thì "lề" trong ngữ cảnh này chính là "lề thói", là hàm nghĩa: "Trong hoàn cảnh hết sức khó khăn, nghèo ngặt, cố giữ lấy lề thói, nề nếp, phẩm hạnh, không phá bỏ truyền thống thói tục tốt đẹp vốn có" - theo “Đại từ điển tiếng Việt” (1999). Dù hoàn toàn đồng ý với cách giải thích, xét ra lời dạy này thời nào cũng đúng nhưng ta cũng có quyền cắc cớ mà rằng: "Cơn cớ tại sao từ giấy lại xuất hiện ở đây?".

Xin thưa, là một cách vận dụng đồng âm hết sức lý thú của từ lề, bởi ta biết với một trang giấy/ tờ giấy khi viết bao giờ người ta cũng chừa lề - tức khoảng trống từ bên trái được để trắng, chứ chẳng mấy ai viết từ mép đầu này đến mút đầu kia. Cái khoảng để trắng ấy không chỉ "làm đẹp" mà còn được sử dụng khi nhiều tờ giấy được đóng lại thành quyển/ thành tập để giữ chúng lại với nhau, không rời rạc gọi là "lề". "Lề: "Dây xe dùng để đóng sách" - “Việt Nam tự điển” (1931) cho biết, bởi thế mới có câu "Xe lề đóng sách".

Dù quyển sách ấy, có rách trang đi nữa nhưng vẫn là quyển sách, nó chỉ trở thành mớ giấy lộn một khi không còn giữ lấy lề. Suy ra, đây là hiểu theo nghĩa đen, còn giải thích trên của “Đại từ điển tiếng Việt” là hiểu theo nghĩa bóng. Ngoài ra "lề" còn chỉ các mảnh giấy vụn khi cắt xén là "giấy lề", sở dĩ gọi như thế, vì khi đóng sách, muốn các trang ngang dọc thẳng đều tăm tắp thì dù thợ thủ công hay dùng máy hiện đại cũng phải cắt xén phần lề trên, dưới và mép phải.

Một khi đã bàn tới từ "lề" cũng nên bàn cho hết nhẽ bởi từ này hầu như đã phai nghĩa, nay ít ai còn thấu hiểu rõ ràng, ngoài câu "Giấy rách giữ lấy lề", ông bà ta còn bảo "Chẳng chê mất lề con gái". Hiểu ra làm sao nhỉ? Theo “Đại từ điển tiếng Việt” (1999): "1. Con gái có người đến hỏi tỏ ra làm cao để giữ giá trị. 2. Kênh kiệu, đài các rởm". Có đúng vậy không? Thiết tưởng nên chọn cách giải thích là ngụ ý khi các cô đến tuổi cập kê, kén chồng, có những chàng trai tìm hiểu cầu thân nhằm tiến tới se duyên kết tóc, nếu mình gật đầu cái rụp e mất lề/ lề thói của con gái, do dó, phải chê ỏng chê eo điểm này điểm kia, chứng tỏ mình cao giá. Vậy, chê này không hẳn chê thật, vì thế, khi nghe thì các chàng trai cứ bỏ ngoài tai, chớ nản chí, chỉ là chê chiếu lệ.

Khi đọc truyện ngắn "Đêm ba mươi" của Thạch Lam, ta gặp câu văn: "Đến cửa buồng số 12, Liên chuyển những đồ lề sang bên trái, cúi cằm xuống giữ cho chặt, còn tay phải vặn quả nắm". Có lẽ sai mo rát chăng? Phải là lúc nhân vật Liên chuyển "đồ lòng" chứ nhỉ? Tức là nội tạng của động vật như tim, gan, phèo, phổi… mua về chế biến cho ngày Tết bởi lúc ấy đã là đêm Giao thừa. Không đâu, "đồ lề" là từ chỉ nghĩa đồ dùng nói chung.

Thật thú vị, trong thành ngữ, ca dao có những câu dù không nhắc đến từ giấy nhưng thật ra vẫn có sờ sờ ra đó. Chẳng hạn, Truyện Kiều có câu "Buồng không lặng ngắt như tờ", thành ngữ có câu "Im như tờ/ Lặng như tờ" v.v… thì tờ ở đây chính là tờ giấy, là "Tấm giấy nguyên bằng phẳng" - “Việt Nam tự điển” (1931); "Lặng như tờ giấy trải" - “Đại Nam quấc âm tự vị” (1895).

Lê Minh Quốc

Nguồn ANTG: https://antgct.cand.com.vn/so-tay/-giay-rach-giu-lay-le-i761783/
Zalo