Giáo sư Đặng Văn Ngữ - Một nhân cách lớn
NSND Đặng Nhật Minh nói rằng với khoa học, cha ông - GS. Đặng Văn Ngữ là người tận tụy, còn ở đời thường, ông là người cha bình dị nhưng để lại một nhân cách lớn cho đời và cho con cháu noi theo.
GS. Đặng Văn Ngữ là "cha đẻ" của thuốc kháng sinh Penicillin ở Việt Nam, đồng thời cũng là người có công lớn trong việc đẩy lùi bệnh sốt rét, giúp cứu sống hàng vạn bộ đội, thanh niên xung phong trong thời kỳ kháng chiến. Nhân kỷ niệm 70 năm Ngày Thầy thuốc Việt Nam, chúng tôi đã có cuộc trò chuyện với con trai của Giáo sư - NSND Đặng Nhật Minh để nghe ông kể về cuộc đời của một nhà khoa học tận tụy, một người cha bình dị nhưng để lại một nhân cách lớn cho đời và cho con cháu noi theo.
Dấu ấn của những công trình y học
GS. Đặng Văn Ngữ sinh năm 1910 trong một gia đình nhà nho ở làng An Cựu (Thừa Thiên Huế). Thuở nhỏ, ông được gia đình cho theo học tiểu học ở Vinh, trung học Huế, sau đó học tiếp tại Hà Nội. Năm 20 tuổi, ông đỗ tú tài và nhận được học bổng theo học tại Trường Y khoa Đông Dương (tiền thân của Trường Đại học Y Dược Hà Nội). Năm 1937, sau 8 năm miệt mài đèn sách, ông bảo vệ thành công luận án áp-xe gan và tốt nghiệp Bác sĩ Y khoa. Với thành tích học tập xuất sắc, ông trở thành người Việt Nam đầu tiên được giữ lại trường làm trợ lý cho GS. Galliard - Chủ nhiệm Bộ môn Ký sinh trùng kiêm Hiệu trưởng Trường Y khoa Đông Dương lúc đó. Khi đang làm trợ giảng thì BS. Đặng Văn Ngữ được cử sang nghiên cứu tại Trường Đại học Y khoa Tokyo (Nhật Bản) trong khuôn khổ trao đổi nghiên cứu sinh giữa hai nước Pháp - Nhật như một đại diện xuất sắc của nền y học Pháp tại Đông Dương. Trong thời gian tu nghiệp ở Nhật, ông tìm ra giống nấm sản xuất Penicillin và công bố 4 công trình khoa học có giá trị.

GS. Đặng Văn Ngữ (giữa) đang thuyết trình với Bác Hồ nhân dịp Bác thăm Trường Y - Dược và Khoa Ký sinh trùng.
Cùng lúc đó ở miền Bắc, giai đoạn 1949-1950, phong trào kháng chiến chống Pháp phát triển mạnh mẽ, GS. Đặng Văn Ngữ lúc bấy giờ vẫn đang làm việc ở Nhật Bản đã xin về nước để tham gia kháng chiến theo lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tại Nhật, GS. Đặng Văn Ngữ là Chủ tịch Hội người Việt yêu nước, nhiều lần dẫn đầu đoàn biểu tình của Việt kiều tại Tokyo phản đối thực dân Pháp trở lại xâm chiếm Việt Nam. Vì thế, trước vận mệnh sống còn của Tổ quốc, một trí thức yêu nước như ông không thể đứng ngoài cuộc. Hành trang mang theo ngoài ít vật dụng cá nhân là một ống nấm Souche Penicillium (giống Penicillium) để rồi sau này làm nên cuộc "cách mạng" trong việc điều chế Penicillin kết tinh (bột) và "nước lọc" Penicillin.
Vì sao lại gọi là "nước lọc" Penicillin? Mặc dù GS. Đặng Văn Ngữ đã điều chế thành công Penicillin kết tinh (bột) nhưng vấn đề nằm ở chỗ làm thế nào để có thể sản xuất được thật nhiều Penicillin đáp ứng nhu cầu kháng khuẩn của các thương bệnh binh ngoài mặt trận? Làm sao để bất kỳ một cơ sở y tế nào cũng có thể sản xuất được Penicillin, phổ biến nó một cách rộng rãi, thông dụng nhất? Bởi sản xuất Penicillin dạng bột là một công việc đòi hỏi thời gian lâu dài, do vậy, nó không thể thỏa mãn được nhu cầu cấp thiết của quân đội và nhân dân.
"Cần một thứ thuốc dễ thực hiện để có thể nhanh chóng chữa lành các vết thương" là điều GS. Đặng Văn Ngữ luôn trăn trở. Và sau nhiều ngày nghiên cứu, GS. Đặng Văn Ngữ và các cộng sự của trường Y đều nhận ra rằng "nước lọc" Penicillin có tác dụng và hiệu lực hơn cả Penicillin kết tinh nếu dùng nó để chữa trị tại chỗ các vết thương nhiễm trùng. Cách thức sản xuất là: lấy nước thân cây ngô có chứa glucose được nấu lên rồi cấy nấm bằng giống của phòng thí nghiệm tạo ra "nước lọc" Penicillin đắp lên vết thương và nó có tác dụng chữa lành, chống nhiễm trùng rất hữu hiệu.

GS.Đặng Văn Ngữ và gia đình.
Về nước, ông nhận nhiệm vụ lên chiến khu Việt Bắc. Tại đây, ông được gặp Hồ Chủ tịch. Người đã động viên, khích lệ và có ảnh hưởng lớn đến tinh thần yêu nước, nhân cách sống của ông trong suốt cuộc đời nghiên cứu khoa học.
Những năm 1950, trong điều kiện nghiên cứu hết sức thô sơ, khó khăn, thiếu thốn cả về nhân lực lẫn vật lực, một phòng labo dã chiến đã được ra đời tại Chiến khu Việt Bắc. Với quyết tâm lớn nhất là phải tìm và sản xuất được kháng sinh như ở các viện mà ông từng làm việc ở Nhật, ông đã sáng tạo bằng cách vận dụng những nguyên liệu dễ kiếm như thân cây ngô, sắn và cả lương khô để điều chế môi trường nuôi cấy nấm, giúp điều chế Penicillin dạng bột và "nước lọc" Penicillin. Trong đó, việc sáng chế ra "nước lọc" Penicillin là một sáng kiến mang tính đột phá với nhiều ưu điểm nổi trội, dùng để chữa trị tại chỗ các vết thương phẫu thuật nhiễm trùng rất hiệu quả. Ngoài ra, "nước lọc" Penicillin còn đáp ứng yêu cầu của cuộc kháng chiến, đó là với sự hướng dẫn của Giáo sư, bất kỳ một cơ sở y tế nào cũng có thể sản xuất được. Việc sản xuất được "nước lọc" Penicillin một cách rộng rãi có ý nghĩa vô cùng đặc biệt, góp phần đắc lực cho công cuộc kháng chiến chống Pháp đi đến thắng lợi. Thức nước kỳ diệu đó đã giúp 80% thương binh không bị rơi vào cảnh cưa chân, tay, thậm chí thoát khỏi nguy cơ tử vong vì nhiễm trùng vết thương.
GS. Tôn Thất Tùng, một trong những trụ cột của Trường Y trong kháng chiến đã đánh giá việc tìm ra "nước lọc" Penicillin và tính ứng dụng của nó là một điều kỳ diệu. Ông nhấn mạnh: "Mỗi chiến dịch, quân y đưa ra tiền tuyến một tổ Penicillin để sản xuất kháng sinh dùng ngay trên mặt trận. Đây là một thành tích kỳ diệu mà từ xưa đến nay, trong các cuộc chiến tranh du kích chưa ai làm được như vậy với những dụng cụ thô sơ, trong hoàn cảnh vô cùng khó khăn". Với công trình nghiên cứu này, GS. Đặng Văn Ngữ đã được Bác Hồ thưởng Huân chương Lao động hạng Ba.
Sau khi hòa bình lập lại ở miền Bắc, ông là người đặt nền móng xây dựng ngành Ký sinh trùng Việt Nam, từ đào tạo cán bộ đến xây dựng các mạng lưới có hệ thống từ Trung ương đến cấp cơ sở. Năm 1957, ông sáng lập Viện Sốt rét Ký sinh trùng và Côn trùng Trung ương; Chủ nhiệm Chương trình tiêu diệt bệnh sốt rét ở miền Bắc (Chủ tịch Ủy ban Tiêu diệt sốt rét Trung ương là Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng). Kết thúc chương trình, cuối năm 1964, bệnh sốt rét đã bị đẩy lùi xuống còn 20% - một thành quả rất khả quan nếu biết rằng trước đó có những vùng nông thôn, miền núi, tỷ lệ sốt rét chiếm tới 90-100% dân số.

GS. Đặng Văn Ngữ và vợ - bà Tôn Nữ Thị Cung.
Nhưng thời gian sau đó, bệnh sốt rét có nguy cơ lan rộng từ miền Nam ra miền Bắc, đe dọa những thành quả tiêu diệt sốt rét đã đạt được. Ngày ấy, sốt rét là thứ bệnh phổ biến ở Trường Sơn, nhất là vào mùa mưa. Bệnh nhân mắc phải, ngoài những biểu hiện chung (môi thâm, mắt vàng, da tái, sưng gan, sưng lá lách...) còn bị teo cơ, nghẹt thở, tiểu ra máu và nhiều trường hợp dẫn đến tâm thần, thậm chí tử vong. Không có thuốc đặc trị, quân số hy sinh do sốt rét thậm chí nhiều hơn hy sinh trong chiến đấu. Nhiều người lính còn chưa kịp cầm súng ra mặt trận đã chết vì bệnh sốt rét ở hậu cứ đơn vị.
Những tin tức về con số thương vong to lớn do sốt rét gây ra cho bộ đội ta ở chiến trường càng làm GS. Đặng Văn Ngữ day dứt không yên. Ông cũng nhanh chóng nhận ra rằng nếu không ngăn chặn căn bệnh này thì không thể nào giữ được thành quả của công cuộc chống sốt rét ở miền Bắc. Cuối cùng ông đã đi đến một quyết định: vào chiến trường Trị Thiên.
Tết Nguyên đán năm 1967, ông cùng với 12 y bác sĩ đi vào chiến khu Trị Thiên Huế để nghiên cứu tại chỗ một loại vaccine chống sốt rét cho bộ đội, lập một vành đai miễn dịch cách ly hai miền Nam - Bắc. Hướng nghiên cứu vaccine này là bắt muỗi sốt rét, mổ lấy tuyến nước bọt của muỗi rồi qua một quá trình nghiên cứu tiếp theo để cho ra một loại vaccine tiêm ngay tại chỗ cho các chiến sĩ từ Nam ra Bắc cũng như từ Bắc vào Nam.

GS. Phạm Huy Dũng. (Ảnh: T.H)
Nói về quyết định táo bạo này, GS. Phạm Huy Dũng (Phó Chủ tịch HĐQT Trường Đại học Thăng Long), người từng là học trò của GS. Đặng Văn Ngữ chia sẻ với chúng tôi: "Một giáo sư đầu ngành, đang là viện trưởng lại xin đi về nơi mưa bom bão đạn để trực tiếp nghiên cứu là điều hết sức dũng cảm. Vì thế, lúc đầu ông không nhận được sự đồng thuận nên đã đích thân gặp Thủ tướng Phạm Văn Đồng để trình bày. Ông đi vì muốn chữa bệnh tại chỗ cho bộ đội và muốn thử nghiệm hiệu quả của vaccine sốt rét điều chế từ thoa trùng muỗi ở quy mô và số lượng lớn hơn. Trong quá trình điều chế, ông là người tiêm cho chính mình trước rồi mới thử nghiệm cho người khác.
Nhưng mới vào được một thời gian, còn chưa kịp dựng lán trại riêng để nghiên cứu thì vào lúc 14h ngày 1 tháng 4 năm 1967, GS. Đặng Văn Ngữ và những đồng nghiệp của mình đã hy sinh bởi trận bom B52 Mỹ rải thảm ở khu căn cứ thuộc địa phận phía Tây Thừa Thiên - Huế. Chỉ có duy nhất cô Trần Thị Lịch là còn sống do được thầy cử về trước để nấu cơm.
Dù công trình nghiên cứu vaccine sốt rét khi đó vẫn trong quá trình thử nghiệm nhưng bước đầu mang đến kết quả rất tốt: Người được tiêm không bị sốt rét, hoặc tỉ lệ mắc rất ít so với người chưa tiêm.
Một tuần sau khi mất, căn phòng làm việc của GS. Đặng Văn Ngữ tại Viện Sốt rét - Ký sinh trùng - Côn trùng ở Mễ Trì, Hà Nội cũng bị bom Mỹ đánh sập, các tài liệu nghiên cứu của thầy cũng bị hủy hoại. Công việc nghiên cứu vaccine chống sốt rét ngừng lại. Nếu GS. Đặng Văn Ngữ không hy sinh và có thêm thời gian nghiên cứu thì có lẽ công trình mà thầy nghiên cứu sẽ có nhiều bước tiến triển mới".
"Gia tài cha tôi để lại cho các con là một nhân cách lớn"
57 năm sau ngày hy sinh của GS. Đặng Văn Ngữ, cũng là tuổi đời ông dừng lại ở chiến trường Trị Thiên năm ấy, chúng tôi tìm đến ngôi nhà của NSND Đặng Nhật Minh để nghe ông trò chuyện những kỷ niệm về cha mình. Ở tuổi 86, sức khỏe NSND Đặng Nhật Minh yếu đi nhiều nhưng những câu chuyện về cha ông thì vẫn vẹn nguyên trong ký ức, giống như đã ngấm vào máu vậy.
NSND Đặng Nhật Minh là con trai cả của GS. Đặng Văn Ngữ, dưới ông còn 2 người em gái. Mẹ ông là bà Tôn Nữ Thị Cung. Hôn nhân của GS. Đặng Văn Ngữ và bà Tôn Nữ Thị Cung là do "cha mẹ đặt đâu con ngồi đó" nên suốt thời gian "yêu", ông thậm chí còn không biết mặt "người yêu" vuông tròn ra sao.
Có một tư liệu quý và chưa từng xuất hiện trong các bài viết về GS. Đặng Văn Ngữ, đó là câu chuyện tình yêu của ông, do chính ông kể trong bản tự thuật tại Chiến khu Việt Bắc năm 1954. Chuyện tình cảm của ông và bà Tôn Nữ Thị Cung được ông miêu tả: "Lúc tôi học năm thứ hai Y khoa thì cha mẹ tôi hỏi vợ cho tôi, là cô con gái 14 tuổi của Thượng thư Bộ hình triều đình Huế Tôn Thất Đàn. Suốt thời gian "làm rể" trong 6 năm, tôi không hề thấy mặt vợ chưa cưới của tôi". Thế nhưng sự sắp xếp ấy đã mang đến cho ông người vợ mà sau này ông khẳng định là "không thể tìm được người thứ hai như Cung". Bà không chỉ hết lòng hy sinh cho chồng như bao phụ nữ thời ấy, mà còn vô cùng đảm đang, tháo vát, vừa giỏi việc nhà vừa giỏi việc buôn bán.

Gia đình Giáo sư Đặng Văn Ngữ năm 1952.
Sau 8 năm đèn sách tại Trường Y, ở tuổi 27, GS. Đặng Văn Ngữ mới thực hiện đám cưới với bà Tôn Nữ Thị Cung. Đạo diễn Đặng Nhật Minh được bà nội kể lại rằng, đám cưới của cha mẹ ông là một đám cưới chạy tang. Mẹ ông đã khóc rất nhiều trước khi về nhà chồng để rồi không lâu sau đám cưới, bà quay trở lại nhà mình chịu tang cha cho tròn đạo hiếu. "Phải chăng vì sự khởi đầu như vậy nên cuộc sống chung của hai người vui ít buồn nhiều và chịu sự xa cách?", NSND Đặng Nhật Minh bùi ngùi cảm thán.
Năm 1943, GS. Đặng Văn Ngữ được cử sang nghiên cứu tại Trường Đại học Y khoa Tokyo (Nhật Bản). Cưới nhau được 6 năm thì cha ông đi biền biệt, thời gian vắng nhà dài hơn thời gian sống với gia đình. Mẹ ông phải bồng bế 3 người con lúc đó còn rất nhỏ (một lên5, một lên 3 và một mới đầy tháng) trở về Huế sinh sống cùng gia đình nội, ngoại.
Nhớ lại những năm tháng ấy, NSND Đặng Minh nói rằng sự chia ly xa cách và cuộc sống khó khăn thời đó đã khiến ông không có tuổi thơ đúng nghĩa. Nhưng thương hơn cả chính là mẹ ông.
"Những năm 40 nghèo khó, mẹ tôi - một phụ nữ trẻ đã phải một nách 3 con, vừa chăm sóc bố mẹ chồng lại phải sống trong cảnh cô đơn ròng rã suốt 7 năm trời. Dù sinh ra trong gia đình quan lại nhưng từ khi "xuất giá" là trọn nghĩa "tòng phu", lao động như một người bình thường để chồng toàn tâm toàn ý với công việc nghiên cứu. Cha tôi lúc làm trợ giảng chỉ được hưởng phụ cấp 60 đồng nhưng khi đi du học ở Nhật thì không có nữa nên mẹ phải làm rất nhiều việc để nuôi con, từ làm nông cho đến buôn bán vải ở chợ Đông Ba... Nói về mẹ tôi chỉ có 2 từ thôi: Hy sinh. Suốt đời hy sinh vì chồng, vì sự nghiệp của chồng và hy sinh vì con", NSND Đặng Nhật Minh nói.
Năm 1949-1950, cha ông về nước nhưng lên luôn chiến khu Việt Bắc nhận nhiệm vụ. Sau nhiều lần đề đạt với tổ chức, lời đề nghị đưa vợ con lên đoàn tụ của cha ông đã được chấp thuận. Theo lời kể của NSND Đặng Nhật Minh, năm đó, mẹ ông dẫn 3 con đi bộ ròng rã suốt 3 tháng trời từ Huế ra Bắc để đoàn tụ với cha ở Chiêm Hóa (Tuyên Quang).
Trong ký ức của NSND Đặng Nhật Minh thì những tháng ngày sống ở Việt Bắc là đoạn đời hạnh phúc nhất của gia đình ông. Vợ sống gần chồng, các con được gọi tiếng cha mỗi ngày... Vui hơn nữa, mẹ ông còn trở thành cộng sự đắc lực cho cha ông tại phòng thí nghiệm điều chế Penicillin. Bà được tín nhiệm bầu là Chiến sĩ thi đua, được gặp Bác Hồ...
"Nhưng tiếc thay lại là hạnh phúc quá ngắn ngủi. Người ta kể lại rằng, năm 1954, trong lúc cha tôi xa nhà thì mẹ đột ngột ngất xỉu trong lúc đang làm việc, hôn mê nhiều ngày. Ngay khi nhận được hung tin, cha tôi vội vàng trở về, nhưng dù đã cùng với GS. Hồ Đắc Di nỗ lực tìm mọi cách cứu chữa, ông vẫn không thể cứu được vợ mình. Mẹ tôi mất sớm quá, lúc đó mới 37tuổi".
Sau khi hòa bình lập lại ở miền Bắc, GS. Đặng Văn Ngữ đưa các con trở lại Hà Nội. Một mình nuôi 3 con trưởng thành, ông nhiều lần được chính gia đình bên vợ giục đi thêm bước nữa để có người chăm sóc, đỡ đần nhưng ông uôn từ chối, với lý do: "Làm sao tìm được một người thứ hai như Cung?".
Ông đã lấy công việc nghiên cứu để khuây khỏa. Nỗi niềm riêng, ông chỉ giữ trong lòng.

GS. Đặng Văn Ngữ và con trai - NSND Đặng Nhật Minh.
Trong cảm nhận của NSND Đặng Nhật Minh, cha ông là một tấm gương với các con về tinh thần làm việc. Khi còn sống gần cha, hình ảnh in đậm trong tâm trí ông là cảnh GS. Ngữ ngồi bên kính hiển vi. Tận tụy và say mê, để rồi những hành động, việc làm của cha ông trở thành tấm gương cho các con theo đó mà học. "Cha tôi không dạy con như cách mà một người cha bình thường hay dạy là chỉ bảo từng ngày hay bằng lời nói... Thứ nhất vì cụ quá bận, thời gian của cụ phần lớn là dành cho phòng thí nghiệm, ký sinh trùng và những chuyến công tác. Thứ hai, vì cụ từng học, làm việc ở Nhật nên việc dạy con cũng theo tinh thần của người Nhật, đó là bằng chính việc làm, hành động của mình để các con thấy mà học thôi.
Tôi cũng học được ở cha mình tinh thần vượt lên số phận, vượt lên hoàn cảnh. Cha tôi không bao giờ nhụt chí hay oán trách ai cả. Trái lại, luôn biết cách gạt đi những cản trở ấy với niềm tin "cứ làm đi rồi mình sẽ được công nhận".
Nhưng thời gian để 3 anh em NSND Đặng Nhật Minh noi gương cha với niềm tự hào vô bờ bến không được nhiều. Ông bảo, tính ra tôi chỉ ở gần cha mình vẻn vẹn được 10 năm, ông còn chưa kịp chứng kiến ngày con trai trở thành đạo diễn như thế nào...
Năm 1967, NSND Đặng Nhật Minh nhận được thông báo về sự hy sinh của cha từ BS. Phạm Ngọc Thạch, khi đó là Bộ trưởng Bộ Y tế. Tin báo là cú sốc quá lớn cho ba anh em, đặc biệt là với cô con gái út. "Cha tôi thương cô út lắm, hai cha con rất tình cảm. Vì thế mà khi bố mất, cô út cũng vì quá nhớ thương mà đổ bệnh rồi qua đời sau đó 2 năm. Lúc đó, cô đang học tập ở Nga. Chỉ trong hơn 10 năm mà gia đình tôi đón nhận 3 cái tang, điều đó đã ảnh hưởng sâu sắc đến cuộc sống và sự nghiệp của tôi. Vì thế mà phim của tôi thường là nỗi buồn nhưng cũng thấm đẫm tinh thần nhân văn. Đó cũng chính là sự ảnh hưởng từ tính cách, con người và sự nghiệp của cụ Ngữ".
"Cha tôi đã làm đúng lời Bác Hồ dạy: Chí công vô tư"
Nói về cuộc đời của cha mình, NSND Đặng Nhật Minh đúc kết: "Khi còn sống cho đến khi mất, cha tôi đúng nghĩa là một trí thức vô sản, đã làm đúng tinh thần như Bác Hồ dạy, chí công vô tư. Lấy công việc là chính, không bao giờ nghĩ về cá nhân mình. Cả cuộc đời cụ sống và cống hiến cho khoa học với tất cả niềm say mê, không đòi hỏi bất kỳ điều gì cho bản thân, cho gia đình, con cái. Cụ sống cũng rất đạm bạc và không coi vật chất là cái gì cả. Với cụ, được phục vụ Tổ quốc, nhân dân, cứu người là niềm hạnh phúc lớn nhất".

NSND Đặng Nhật Minh. (Ảnh: T.H)
Rồi ông kể cho chúng tôi nghe những lần GS. Đặng Văn Ngữ lựa chọn giữa lý tưởng phụng sự khoa học với "cơm áo gạo tiền" cho bản thân. Lần thứ nhất là sau khi tốt nghiệp bác sĩ y khoa, cha ông đã cùng một số bác sĩ mở phòng khám tư. Nhưng rồi không lâu sau GS. Đặng Văn Ngữ thôi hẳn để chú tâm vào công việc nghiên cứu và làm trợ giảng tại Trường Y học toàn cấp Đông Dương, vì ông sớm nhận ra rằng chỉ có làm trong trường đại học mới đủ cơ sở và điều kiện để nghiên cứu khoa học. Lương của trợ giảng lúc đó có 60 đồng, trong lúc làm bác sĩ tư thu nhập là 600 đồng, nhưng cha ông sẵn sàng từ bỏ để làm nghiên cứu khoa học. Cuộc sống kinh tế gia đình lúc bấy giờ gặp rất nhiều khó khăn. Bà Tôn Nữ Thị Cung đã phải làm các loại bánh truyền thống xứ Huế gửi bán để có thêm thu nhập, chăm lo cho gia đình. Bà muốn chồng mình dành hết tâm huyết, trí tuệ, tài năng cho y học.
Lần thứ hai là khi có nhiều điều kiện thuận lợi học tập và nghiên cứu tại Nhật, được nhiều nơi mời chào, nhưng lòng yêu nước mãnh liệt đã thôi thúc ông quyết định trở về nước, mang kiến thức khoa học phục vụ nhân dân, phục vụ công cuộc kháng chiến của dân tộc.
"Nhiều người từng hỏi tôi, có người cha tài giỏi, nổi tiếng như thế thì hẳn là được nhờ lắm. Nhưng một sự thật là cụ Ngữ không bao giờ nhờ vào sự nổi tiếng của mình để xin xỏ cho mình hay con cái. Chẳng hạn như, cha tôi rất muốn tôi đi theo con đường nghiên cứu khoa học nhưng lúc đó còn do tổ chức sắp xếp chứ không phải muốn học gì là được. Tôi được cử đi học ở Nga về phiên dịch. Nhưng vì sự liêm khiết, chí công, vô tư, cha tôi không xin cho tôi được theo ý nguyện của mình mà để tổ chức sắp xếp. Và ông cũng rất vui khi con cái mình trưởng thành mà không phải dựa vào bất cứ sự ưu tiên nào".
Ước vọng không thành nhưng điện ảnh có thêm một tài năng lớn
Dù không đi theo nghề y như mong ước của cha nhưng cho đến nay, NSND Đặng Nhật Minh vẫn giữ chiếc kính hiển vi – kỷ vật mà cha ông mang về từ Nhật làm quà tặng cho con trai. Nếu không có sự rẽ hướng thì có lẽ bây giờ ông đã là một bác sĩ, một nhà nghiên cứu nối nghiệp cha. Nhưng cũng nhờ có sự đi ngang ấy mà điện ảnh có thêm một đạo diễn tài năng với những thước phim nổi tiếng, không chỉ trong nước mà còn với điện ảnh thế giới.
GS. Phạm Huy Dũng: “Phải nói rằng vaccine sốt rétlàm từ thoa trùng của muỗi nhiễm sốt rét tự nhiênmà GS. Đặng Văn Ngữ đề xuất là một ý tưởng táobạo, dù chưa hoàn chỉnh nhưng có thể có tác dụng dùchỉ một phần cũng đã làm giảm được sốt rét cho bộđội và nhân dân. Sau thầy Ngữ, vào năm 1981, GS.Meuwissen người Hà Lan đã đề xuất một loại vac-cine cũng làm từ ký sinh trùng sốt rét lấy từ tự nhiên.Nếu vaccine do thầy Ngữ đề xuất lấy thoa trùng từtuyến nước bọt của muỗi nhiễm sốt rét tự nhiên thìvaccine của GS. Meuwissen lấy từ đại giao bào trongmáu người nhiễm sốt rét tự nhiên, có tên là vaccinengăn chặn lây truyền sốt rét (malaria blockingtransmission vaccine). Dự kiến vào tháng 4/2025,Viện Sốt rét Ký sinh trùng và Côn trùng Trung ươngsẽ cộng tác với Viện Radboudumc Hà Lan tổ chứcmột hội nghị khoa học có tên “60 năm loài ngươìtìm kiếm vaccine sốt rét: Đóng góp của Việt Nam vàHà Lan”.
Khi đang ở Chiến khu Việt Bắc, NSND Đặng Nhật Minh được sang học ở Trung Quốc, rồi sang Liên Xô học cấp tốc 19 tháng để về nước làm phiên dịch. Về nước, ông được phân công dịch lời thoại tại Cơ quan Phát hành phim và Chiếu bóng Trung ương, một công việc - theo đánh giá của ông là "không có gì thú vị". Dù vậy, đó lại là cơ duyên đưa ông đến với điện ảnh. Hồi ấy, 99% phim chiếu trong nước là phim Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu. Hàng ngày, NSND Đặng Nhật Minh phải dịch lời thoại của các phim đó từ tiếng Nga ra tiếng Việt để các cán bộ biên soạn thuyết minh soạn thành các bản thuyết minh đọc tại các rạp. Sau khi dịch lời thoại của những bộ phim: Đàn sếu bay, Người thứ 41, Bài ca người lính, Chủ nghĩa phát-xít thông thường , Người cùng thời đại... ông đã có những ấn tượng sâu đậm với môn nghệ thuật mới mẻ này.
Với vốn tiếng Nga có được, ông bắt đầu đi sâu tìm hiểu sâu về điện ảnh và trở nên yêu thích từ bao giờ. Học tập tinh thần của cha, mỗi khi làm một bộ phim nào, đạo diễn Đặng Nhật Minh luôn muốn phim của mình toát lên tinh thần như của cha ông, đó là tinh thần nhân văn. "Tinh thần đó như ngấm vào máu nên phim của tôi đầy nhân nghĩa và gắn chặt với số phận của đất nước chứ không chạy theo vấn đề giải trí. Nếu hỏi vì sao phim của tôi lại thấm đẫm những tinh thần đó, thì đó chính là lĩnh hội được từ tấm gương của cha tôi", NSND Đặng Nhật Minh nói.
Ông bảo, Bao giờ cho đến tháng Mười - 1 trong 18 bộ phim châu Á xuất sắc nhất mọi thời đại do CNN bình chọn - được bắt nguồn từ chính sự hy sinh của GS. Đặng Văn Ngữ. Nỗi đau mất chồng của chị Duyên cũng chính là nỗi đau của gia đình ông, cũng là của những người phụ nữ có người thân đã ngã xuống trong chiến tranh.
Hay Đừng đốt được ông viết kịch bản và đạo diễn là để tri ân BS. Đặng Thùy Trâm và cha ông. Có một chi tiết khá thú vị là khi NSND Đặng Nhật Minh đến gặp cụ Doãn Ngọc Trâm - thân sinh của BS. Đặng Ngọc Trâm, cụ nói, GS. Đặng Văn Ngữ là thầy dạy của Trâm. Đặng Thùy Trâm học Trường Y, môn ký sinh trùng là thầy Ngữ dạy. Khi đọc tác phẩm Nhật ký Đặng Thùy Trâm, NSND Đặng Nhật Minh đã rất xúc động và có một sự thôi thúc mãnh liệt từ bên trong là phải đưa tác phẩm này lên màn ảnh. Lý do ngoài số phận kỳ lạ của cuốn nhật ký lưu lạc bao nhiêu năm qua ở nước Mỹ, sự đồng cảm còn nằm ở chỗ "suy nghĩ của chị Trâm và GS. Đặng Văn Ngữ có nhiều điểm rất giống nhau, đều tận tụy với công việc và yêu thương người bệnh".

Thứ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Thị Liên Hương chụp ảnh cùng đoàn đại biểu tại Lễ phát động cuộc thi tìm hiểu cuộc đời và sự nghiệp khoa học của GS. Đặng Văn Ngữ.
Nhưng GS. Đặng Văn Ngữ không chỉ "sống" trong phim của con trai mình. Tên tuổi và thành tựu của Giáo sư có trong sách, các công trình nghiên cứu, tên đường, tên trường... Ngày nay, những đóng góp đó vẫn được các đồng nghiệp, thế hệ trẻ nhắc nhớ.
Năm 2023, Viện Sốt rét - Ký sinh trùng - Côn trùng Trung ương (Bộ Y tế) đã phát động cuộc thi "Tìm hiểu cuộc đời và sự nghiệp khoa học của Giáo sư, Bác sĩ, Anh hùng, Liệt sĩ Đặng Văn Ngữ". Cuộc thi không chỉ là đợt sinh hoạt chính trị, tư tưởng cho viên chức, cán bộ y tế dự phòng và phòng chống sốt rét, ký sinh trùng, côn trùng; Đây cũng là dịp để thể hiện tình cảm, trách nhiệm đối với GS. Đặng Văn Ngữ - nhà khoa học đầu ngành trong lĩnh vực ký sinh trùng ở Việt Nam, là Viện trưởng đầu tiên của Viện Sốt rét - Ký sinh trùng - Côn trùng Trung ương. Điều đáng chú ý, giải Nhất của cuộc thi thuộc về một chiến sĩ công an. NSND Đặng Nhật Minh nói rằng, điều đó chứng tỏ sự nghiệp của cha ông nhận được sự quan tâm rộng rãi của người dân chứ không chỉ bó hẹp trong ngành Y tế.
"Cha tôi mất đã 57 năm nhưng ngày nào tôi cũng cảm thấy như cha còn sống vì ngày xưa sự vắng mặt của cha là thường xuyên. 57 năm qua vắng mặt cha, chúng tôi vẫn tưởng cha đang đi công tác ở đâu đó... Với cha tôi, "thác là thể phách, còn là tinh anh". Cụ mất đi nhưng giá trị khoa học trong chăm sóc sức khỏe nhân dân và tinh thần còn mãi mãi. Tôi và gia đình cảm động vì có nhiều bài báo viết về cha tôi, chứng tỏ cha tôi không chỉ tiếp tục sống trong tâm hồn con cháu trong gia đình, trong các đồng nghiệp, cộng sự và thế hệ học trò, mà còn ở trong tâm tưởng của không ít người dân", NSND Đặng Nhật Minh nói.
Điều khiến NSND Đặng Nhật Minh hạnh phúc nữa là hằng năm, gia đình ông vẫn nhận được nhiều tình yêu thương của ngành Y tế và của rất nhiều người không ở trong ngành Y tế. Cứ đến dịp Tết, Ngày Thương binh Liệt sĩ là đại diện Viện Sốt rét - Ký sinh trùng - Côn trùng Trung ương, đại diện Trường Đại học Y Hà Nội đều đến thắp hương cho cha ông. Tại Viện nơi cha ông từng là người khởi lập có dựng một bức tượng bán thân của GS. Đặng Văn Ngữ, quanh năm gần như lúc nào cũng có hoa tươi dưới chân tượng...
- Năm 1955, BS. Đặng Văn Ngữ trở thành 1 trong 45 vị giáo sư đâùtiên của Việt Nam và được Bác Hồ ký quyết định phong tặng , được đềcử làm Giáo sư Trường Y - Dược khoa đại học.
- Năm 1957, ông sáng lập Viện Sốt rét - Ký sinh trùng - Côn trùng;Chủ nhiệm Chương trình tiêu diệt bệnh sốt rét ở miền Bắc. Giáo sư đãtiếp tục thực hiện các công trình nghiên cứu khoa học, đào tạo cán bộcho ngành Y tế, làm Chủ nhiệm Bộ môn Ký sinh trùng và Bộ môn Sinhhọc của Trường Đại học Y khoa Hà Nội, xây dựng và làm Viện trưởngViện Sốt rét - Ký sinh trùng - Côn trùng đầu tiên của Việt Nam.
- Từ năm 1955-1967, khi đang tập trung nghiên cứu vaccine phòngbệnh sốt rét thì ông hy sinh. Ông được truy tặng danh hiệu Anh hùngLao động , Liệt sĩ.
- GS. Đặng Văn Ngữ là 1 trong 12 nhà khoa học y dược đầu tiên củanước ta được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh lần thứ nhất 10/9/1996.Ngày nay, tên của ông được đặt cho nhiều trường học, các tuyến đường ,phố tại Hà Hội, TP.HCM, Quảng Bình,...