Giảm bớt áp lực, rủi ro với hệ thống các tổ chức tín dụng
Chính phủ đã chỉ đạo chính sách tài khóa cần nghiên cứu để có thể mở rộng hợp lý, tránh sự lệ thuộc quá nhiều vào chính sách tiền tệ.
Sáng 11/11, trong khuôn khổ Kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XV, Quốc hội tiến hành phiên chất vấn và trả lời chất vấn đối với nhóm vấn đề thuộc lĩnh vực ngân hàng.
Tại phiên chất vấn, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Thị Hồng cho biết, hiện nay các chỉ số về nợ nước ngoài, về thâm hụt ngân sách, nợ công đang ở dưới ngưỡng cho phép khá nhiều. Chính phủ đã chỉ đạo chính sách tài khóa cần nghiên cứu để có thể mở rộng hợp lý, tránh sự lệ thuộc quá nhiều vào chính sách tiền tệ.
Bởi vì nếu như tăng trưởng kinh tế phụ thuộc quá nhiều vào chính sách tiền tệ, nhất là phần tín dụng mở rộng ra quá sẽ tiềm ẩn rủi ro đối với hệ thống các tổ chức tín dụng.
Báo cáo với Quốc hội hiện nay thì quy mô dư nợ tín dụng trên GDP của Việt Nam thì đã là rất cao, đạt trên 120 % GDP là cao trong số các nước của thế giới mà World Bank (Ngân hàng thế giới) đã cảnh báo.
Cho nên nếu Việt Nam tiếp tục dựa vào chính sách tiền tệ để tăng trưởng kinh tế sẽ tiềm ẩn rủi ro. Chính vì thế mà thời gian vừa qua đã chỉ đạo rất quyết liệt, tổ chức rất nhiều cuộc họp đánh giá về thị trường tài chính để tìm giải pháp thúc đẩy các phân khúc khác của thị trường tài chính, như thị trường trái phiếu doanh nghiệp sẽ giải quyết được vốn dài hạn cho doanh nghiệp và người dân.
Bởi vì tính chất hoạt động của hệ thống ngân hàng là cung ứng nguồn vốn ngắn hạn, chủ yếu là nguồn vốn lưu động cho doanh nghiệp và người dân. Nếu giải quyết được nhu cầu vốn dài hạn ở trên thị trường trái phiếu doanh nghiệp, thị trường chứng khoán sẽ giảm bớt áp lực với rủi ro của hệ thống các tổ chức tín dụng.
Năm 2024, Ngân hàng Nhà nước định hướng mức tăng trưởng tín dụng khoảng 15%, có điều chỉnh phù hợp với diễn biến, tình hình thực tế. Ngân hàng Nhà nước đã giao toàn bộ chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng năm 2024 cho các tổ chức tín dụng và thông báo công khai (ngày 31/12/2023) nguyên tắc xác định để tổ chức tín dụng chủ động thực hiện tăng trưởng tín dụng.
Trong bối cảnh tăng trưởng tín dụng toàn hệ thống vẫn còn thấp, Ngân hàng Nhà nước đã chủ động điều chỉnh chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng cho các tổ chức tín dụng.
Bên cạnh đó, Ngân hàng Nhà nước yêu cầu các tổ chức tín dụng thực hiện nghiêm túc các chỉ đạo về hoạt động tiền tệ, tín dụng, các quy định về cấp tín dụng của Ngân hàng Nhà nước nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh, bảo đảm an toàn hệ thống và ổn định thị trường tiền tệ; tăng trưởng tín dụng an toàn, hiệu quả, lành mạnh, hạn chế nợ xấu gia tăng và phát sinh, đảm bảo an toàn hoạt động của tổ chức tín dụng; hướng tín dụng vào các lĩnh vực sản xuất, lĩnh vực ưu tiên, lĩnh vực là động lực tăng trưởng kinh tế; kiểm soát chặt chẽ đối với lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro.
Mặt bằng lãi suất giảm khoảng 2,5% trong năm 2023 và tiếp tục có xu hướng giảm trong 10 tháng năm 2024 (lãi suất cho vay bình quân năm 2023 giảm hơn 2,5%/năm so với cuối năm 2022; đến ngày 20/10/2024 tiếp tục giảm 0,76%/năm so với cuối năm 2023).
Mặc dù thị trường tài chính thế giới có nhiều biến động nhưng tỷ giá USD/VND cơ bản diễn biến linh hoạt, phù hợp với điều kiện thị trường, thị trường ngoại tệ duy trì ổn định, thanh khoản thị trường thông suốt.
Tại Kỳ họp thứ 3, Ngân hàng Nhà nước đã báo cáo Quốc hội những khó khăn thách thức trong điều hành chính sách tiền tệ thời gian qua, đến nay vẫn tiếp tục là áp lực trong điều hành chính sách tiền tệ.
Lạm phát giảm chưa bền vững và tiềm ẩn rủi ro áp lực tăng trong bối cảnh độ mở nền kinh tế Việt Nam rất lớn, giá cả hàng hóa thế giới biến động phức tạp do tác động của diễn biến địa chính trị phức tạp, xu hướng gia tăng về an ninh lương thực tại các quốc gia, thời tiết cực đoan;...
Việc thực hiện chủ trương tiếp tục giảm lãi suất trong thời gian tới là rất khó khăn do: Lãi suất cho vay đã có xu hướng giảm sâu thời gian qua (năm 2023 giảm hơn 2,5%/năm và tính đến 20/10/2024 tiếp tục giảm 0,76%/năm so với cuối năm 2023); nhu cầu vốn tín dụng đang có xu hướng tiếp tục tăng, thời gian tới sẽ áp lực đối với mặt bằng lãi suất; sức ép tỷ giá từ thị trường quốc tế khiến việc giảm lãi suất VND trong nước càng gia tăng áp lực lên tỷ giá và thị trường ngoại tệ trong nước.
Sức ép cung ứng vốn của hệ thống các tổ chức tín dụng đối với nền kinh tế vẫn còn lớn, kể cả vốn trung dài hạn trong bối cảnh huy động vốn từ thị trường trái phiếu doanh nghiệp, chứng khoán gặp nhiều khó khăn. Điều này tiềm ẩn rủi ro kỳ hạn, rủi ro thanh khoản lớn đối với hệ thống ngân hàng (huy động ngắn hạn cho vay trung dài hạn).
Sức hấp thụ vốn tín dụng của doanh nghiệp và người dân còn thấp: Sau khi chịu tác động bởi đại dịch COVID-19, nhiều doanh nghiệp thu hẹp hoặc ngừng sản xuất do thiếu đơn hàng, giải thể, đóng cửa, sức khỏe tài chính bị giảm sút; đồng thời xu hướng thắt chặt, cắt giảm chi tiêu của người dân dẫn đến cầu tín dụng thấp; một số nhóm khách hàng có nhu cầu tín dụng nhưng chưa đáp ứng điều kiện vay vốn hoặc giải ngân vốn vay do vướng mắc về thủ tục pháp lý của dự án, năng lực tài chính suy giảm, mất cân đối dòng tiền, thiếu phương án sản xuất kinh doanh khả thi…
Với những khó khăn thách thức này, các tổ chức quốc tế như IMF, WB, AMRO đều nhận định dư địa nới lỏng chính sách tiền tệ của Việt Nam hiện rất hạn hẹp và khuyến nghị Việt Nam cần tận dụng dư địa tài khóa còn nhiều để hỗ trợ tăng trưởng kinh tế.
Ngân hàng Nhà nước tiếp tục bám sát diễn biến thị trường, tình hình kinh tế trong và ngoài nước để điều hành chính sách tiền tệ kịp thời, hiệu quả, phối hợp đồng bộ, hài hòa, chặt chẽ với chính sách tài khóa và các chính sách kinh tế vĩ mô khác nhằm góp phần hỗ trợ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, ổn định thị trường tiền tệ, ngoại hối và hệ thống ngân hàng.
Ngân hàng Nhà nước điều hành các công cụ chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt, bám sát diễn biến kinh tế vĩ mô, góp phần ổn định thị trường tiền tệ, sẵn sàng hỗ trợ thanh khoản cho hệ thống tổ chức tín dụng, hỗ trợ điều hành chính sách tiền tệ. Đồng thời, Ngân hàng Nhà nước điều hành lãi suất, tỷ giá phù hợp với cân đối vĩ mô, lạm phát và mục tiêu chính sách tiền tệ; tiếp tục chỉ đạo các tổ chức tín dụng tiết giảm chi phí để giảm mặt bằng lãi suất cho vay.
Ngân hàng nhà nước sẽ tiếp tục thực hiện các biện pháp điều hành tín dụng chủ động, linh hoạt, phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô, lạm phát, đáp ứng nhu cầu vốn cho nền kinh tế, hướng tín dụng vào lĩnh vực sản xuất kinh doanh, lĩnh vực ưu tiên và các động lực tăng trưởng kinh tế theo chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; kiểm soát chặt chẽ tín dụng vào các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro; tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp, người dân tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng.