Giải phóng quê hương thứ hai của tôi
(Trích hồi ký “Bình Phước và con đường tôi đã chọn” của đồng chí Bùi Thanh Phong. Tựa đề theo hồi ký)
BPO - Đồng chí Bùi Thanh Phong - Bí thư Tỉnh ủy đầu tiên của Bình Phước sau ngày tái lập tỉnh năm 1997, tên khai sinh là Bùi Trung Cường, tên gọi thân mật là Năm Phong. Sinh ra, lớn lên ở quê hương Đồng Khởi, Bến Tre. Năm 1961, khi vừa bước sang tuổi 22, từ Bến Tre, đồng chí vượt sông, vượt rừng lên Bình Long, bám trụ ở Chơn Thành 15 năm kháng chiến chống Mỹ. Sau giải phóng, đồng chí công tác ở Bình Long, rồi ra Hà Nội học, tiếp tục trở lại Bình Long, về Tỉnh ủy Sông Bé và năm 1997 lại trở về tỉnh Bình Phước ngày tái lập cho đến khi nghỉ hưu. Từng bị địch bắt tra tấn dã man, bao lần “vào sinh, ra tử” và cả khi được giao nhiều nhiệm vụ khác nhau, rồi trở thành người lãnh đạo cao nhất của tỉnh, đồng chí luôn giữ khí tiết, phẩm giá của một người cộng sản.
Nhân kỷ niệm 50 năm Ngày giải phóng tỉnh Bình Phước (23-3-1975 - 23-3-2025), Báo Bình Phước lược trích từ cuốn hồi ký “Bình Phước và con đường tôi đã chọn” của đồng chí Bùi Thanh Phong do nhà báo Trần Phương thể hiện, phần nội dung gắn với các dấu mốc lịch sử ý nghĩa này.
…
Tháng 3-1972, Quân ủy và Bộ Chỉ huy Miền quyết định mở Chiến dịch Nguyễn Huệ trên chiến trường miền Đông Nam Bộ. Hướng chủ yếu của chiến dịch là đường 13 - Lộc Ninh, Bình Long. Các tỉnh Tây Ninh, Phước Long, Biên Hòa, Long Khánh… là hướng phối hợp thứ yếu. Trước khi mở chiến dịch, anh Tư Tuệ là Sư phó Sư đoàn 7 đi trinh sát dọc tuyến đường. Tôi và anh Sáu Mới đưa anh Tư Tuệ đi trinh sát địa bàn và các chốt của A17, lực lượng bố trí của huyện đội... Anh Tư Tuệ nói:
- Trời ơi! Ở trên đó người ta nói dưới này không còn gì hết. Ai dè anh em bám trụ tốt vầy. Anh em làm chủ thế này thì thắng lợi 90% rồi.
Về căn cứ, anh Tư Tuệ ngồi uống trà với tôi cùng anh em huyện đội và phân tích tình hình, giao nhiệm vụ cho lực lượng của huyện:
- Nói thiệt với Năm Phong, kỳ này không đánh như Mậu Thân 1968, phải chuẩn bị nhiều phương án. Nếu phương án lấy Bình Long không được thì bao vây nhốt nó lại. Ở đây các đồng chí phải nhốt Chơn Thành lại, nhốt trường biệt kích Minh Hòa lại. Chơn Thành, Minh Hòa, lực lượng của huyện chịu trách nhiệm. Biệt kích Minh Hòa bung ra đánh thì dữ lắm. Nó được Mỹ trực tiếp huấn luyện, tinh nhuệ. Cái bót của nó ở cầu Bà Già phải bứng đi. Còn Minh Hòa, đánh không được cũng phải nhốt nó lại.

Bí thư Tỉnh ủy Bình Phước Bùi Thanh Phong (bìa phải) nhận lẵng hoa chúc mừng từ nguyên Bí thư Tỉnh ủy Sông Bé Nguyễn Minh Triết tại lễ ra mắt Ban Chấp hành lâm thời Đảng bộ tỉnh Bình Dương - Bình Phước
Tôi hỏi:
- Trường Minh Hòa nhốt bằng cách nào anh Tư?
- Đầu tiên vây ép nó, không cho nó ra khỏi hàng rào, sau đó đào công sự sát hàng rào, nhốt nó lại!
Sau đó, anh Tư Tuệ chỉ cụ thể kỹ thuật đào công sự sát hàng rào, cách kiểm soát cả trường biệt kích cho chúng tôi, rồi dặn:
- Cần chở cây, gỗ tới phục vụ cho đào hầm xung quanh. Pháo nó bắn rơi vô hầm hết. Sau đó tiến sát, đào hầm ngay chân rào.
Anh Tư Tuệ nói tiếp:
- Việc thứ ba phải làm là tuyến đường 13, phải cắt đứt. Không còn xe chạy, dân không còn đi, trên không phòng không khống chế không cho nó tiếp viện. Không chặt được đường 13 thì chiến dịch chưa dứt. Đường 13 đứt thì như một đường dao găm đâm xuống Sài Gòn. Thiệu không thể bỏ đường 13 được. Ta bẻ gãy đường 13, địch trong hay ngoài An Lộc đều khó, Thiệu sẽ lúng túng, càng gỡ càng bị siết chặt ở các chiến trường khác trong toàn miền Nam.
Anh Tư Tuệ phổ biến nhiệm vụ phòng không bắn máy bay là của ảnh, còn cắt đứt tuyến đường 13 thì kết hợp với địa phương:
- A17 phụ trách từ chốt Tàu Ô trở về Chơn Thành, bên kia chốt là của Sư đoàn 7. Mé Nam Chơn Thành, Sư đoàn 7 đóng chốt ở Lai Khê, Bàu Bàng. Lực lượng vũ trang của huyện chốt phía Đông đường 13...
Anh Tư Tuệ phân công nhiệm vụ cụ thể, chi tiết. Sau khi anh đi, chúng tôi chia nhau y vậy chấp hành. 7 giờ sáng 4-4-1972, lực lượng vũ trang của huyện phát hỏa bằng B40 vô chốt Ba Na trên đường 13. Địch chết vài ba tên, còn bao nhiêu bỏ chạy hết. Từ đó lên Tân Khai, các chốt do bộ đội chủ lực đánh, giải phóng luôn Tân Khai. Ngày 6-4 mới đánh vô Bình Long. Đây là trận đánh có hỏa lực mạnh của cả ta và địch. Trận chiến diễn ra rất ác liệt. Quân chủ lực của ta đánh trận này là Sư đoàn 9. Sư đoàn 7 làm nhiệm vụ chốt chặn.
Ngày 7-4 ta giải phóng Lộc Ninh. Từ ngày 7 đến 13-4-1972, trong lúc quân chủ lực ta bao vây thị xã An Lộc, bộ đội huyện, tỉnh liên tục pháo kích Tiểu khu Bình Long, Chi khu An Lộc, sở chỉ huy Sư đoàn 5 ngụy… Ngày 13-4-1972, ta bắt đầu tiến công thị xã Bình Long, giằng co suốt 32 ngày đêm chiến đấu quyết liệt với địch... Dã man nhất là trận Mỹ ném bom vào Bệnh viện Bình Long giết chết gần 3.000 người, trong đó có cả bệnh nhân, binh sĩ ngụy bị thương đang nằm viện và thường dân. Trước hành động điên cuồng của giặc, Tỉnh ủy Bình Long chủ trương tổ chức sơ tán hơn 20.000 dân vào vùng căn cứ. Với quyết tâm chiếm lại An Lộc, các sư đoàn thiện chiến của địch kết hợp bộ binh với cơ giới tổ chức đột kích mạnh nhưng đều bị thất bại. Có ngày địch dùng tới cả chục phi vụ B52, 60 phi vụ máy bay chiến thuật ném bom vào khu vực Tàu Ô - Xóm Ruộng. Các sư đoàn 18, 21, 25 cùng nhiều đơn vị bộ binh, cơ giới của địch bị ta đánh thiệt hại nặng. Trong khi đại bộ phận quân chủ lực ngụy bị giam chân tại An Lộc, ở Chơn Thành cán bộ của các mũi công tác cùng với du kích xã Minh Hòa, Minh Thạnh, Sóc 5… đánh diệt bọn dân vệ ác ôn, giải phóng hoàn toàn các xã.
Ngày 15-5-1972, địch tăng thêm quân để mở đợt phản kích. Để tránh tổn thất ta rút khỏi thị xã An Lộc, lập điểm chốt chặn Tàu Ô - Xóm Ruộng, thuộc địa bàn Tân Khai để đánh địch càn quét giải tỏa đường 13. Sư đoàn 7 của ta được giao nhiệm vụ cùng lực lượng vũ trang địa phương và nhân dân đắp chốt, đào hầm, xây "lũy thép” Tàu Ô - Xóm Ruộng với quyết tâm "Chặn đứng không cho một chiếc xe, một tên địch vượt qua"...
Chốt Tàu Ô - Xóm Ruộng trở thành nơi giao tranh quyết liệt. Địch dùng hỏa lực cực mạnh cũng không cách nào công phá được do quân và dân ta rất anh dũng. Chốt chặn Tàu Ô được gọi là "chốt thép", bẻ gãy đường 13 của địch. Chốt chặn Tàu Ô khiến địch lên An Lộc phải đi bằng máy bay. Đi máy bay, mình bắn, nó lên cũng vật lộn. Đường 13 bị ta chặt từng khúc. Để hỗ trợ cho An Lộc, địch tăng quân tập trung án ngữ tại Chơn Thành. Hai trường biệt kích ở Minh Hòa và Minh Lập đông nghẹt, tôi chỉ đạo các lực lượng của Chơn Thành vây chặt đúng như yêu cầu của anh Tư Tuệ.
Sau đó, chúng không cho dân ra, đóng cửa ấp chiến lược. Xung quanh chúng làm rào cây, cửa có lính gác. Lực lượng vũ trang của ta bao vây Chơn Thành. Ngã tư Chơn Thành chúng co cụm kiểm soát nghiêm ngặt chừng 500m mỗi hướng. Tôi bố trí 2 tiểu đội vũ trang đào hầm, đào giao thông hào ngay dưới lòng ngã tư Chơn Thành. Những năm 1973-1974, chi bộ ấp tổ chức cho nhân dân trong các ấp chiến lược đấu tranh chính trị phá kìm kẹp. Các chi bộ lãnh đạo từng nhóm, ấp, khu vực kéo lên đấu tranh. Dân đấu tranh với chủ trương:
- Hết gạo rồi, mấy ông nhốt tụi tui 10 ngày nữa tụi tui đói chết hết. Các ông phải cho tụi tui ra đặng kiếm đồ ăn, rồi có gạo phát cho tụi tui sống.
Cuộc đấu tranh của nhân dân rất quyết liệt. Quận trưởng Chơn Thành phải giải quyết theo yêu cầu của nhân dân. Tuy nhiên, chúng rất độc ác. Chúng cho dân ra, nhưng trước đó đã cho lính gài đạn xung quanh ở ngoài. Dân đi ra máng phải nổ chết 2-3 người. Dân không đi nữa, khiêng xác người bị trái nổ chết về. Chi bộ ở trong họp bàn tổ chức nhân dân khiêng xác những người bị chết đến dinh Quận trưởng đấu tranh. Cuộc đấu tranh cả ngàn người tham gia, buộc địch phải nhận tội với dân, sau đó hạn chế kìm kẹp. Đợt đấu tranh này do chi bộ trong ấp lãnh đạo. Tôi và huyện ủy ở ngoài không kịp tham gia nhưng anh em ở trong chủ động đấu tranh rất đúng phương pháp và hiệu quả.
Sau khi Hiệp định Paris được ký kết ngày 27-1-1973, giữa vùng giải phóng và vùng địch tạm chiếm giằng co nhau. Chúng tôi thành lập các chốt theo khu vực chúng cắm cờ - như một dấu hiệu phân định vùng giải phóng và vùng chúng chiếm cứ và gọi đó là các "chốt cờ". Liền hơn 2 năm chúng tôi bố trí lực lượng ở các chốt cờ đó, bên dưới có hầm trú ẩn. Chơn Thành có chốt cắm ở Minh Long, Minh Thạnh, Minh Hòa, giáp với vùng giải phóng. Nó cũng đánh lấn chiếm mình hoài, nhưng đều bị phản công ngược trở lại, có lần mình diệt cả tiểu đoàn. Sau đó mình lên loa truyền thanh nói nó xâm phạm vùng giải phóng. Nó biết mình có hầm ở dưới, không biết chỗ nào nên đem bom đánh. Nhưng hầm của mình được đào rất sâu, chắc chắn, kiểu như địa đạo Củ Chi, có chỗ mắc võng ngủ được, nên chúng đánh không ăn nhằm gì. Bên tụi nó cũng có hầm nhưng kiểu hầm cá nhân, không liên thông với nhau.
(còn nữa)