Giải pháp để doanh nghiệp Việt vươn mình thành 'đại bàng' công nghệ

Chia sẻ cảm xúc tiếc nuối khi rất nhiều 'đại bàng non' không thể trở thành 'đại bàng' mà hóa về 'chim sẻ', TS. Nguyễn Nhật Quang, Viện trưởng Viện KH&CN VINASA - cho rằng nhà nước cần tạo ra được một thị trường đủ sức thúc đẩy để doanh nghiệp khoa học công nghệ Việt vươn mình lớn mạnh trong thời gian tới.

Ông Nguyễn Đạt, Phó Tổng giám đốc Tập đoàn Viettel phát biểu tại Diễn đàn Tương lai Khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, do Bộ KHCN tổ chức ngày 29/8/2025.

Ông Nguyễn Đạt, Phó Tổng giám đốc Tập đoàn Viettel phát biểu tại Diễn đàn Tương lai Khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, do Bộ KHCN tổ chức ngày 29/8/2025.

Khó khăn trong phát triển doanh nghiệp khoa học công nghệ

Nhìn nhận về những khó khăn trong việc hình thành và phát triển mạng lưới doanh nghiệp khoa học công nghệ tại Việt Nam, ông Nguyễn Đạt, Phó Tổng giám đốc Tập đoàn Viettel chỉ ra rằng, tỉ lệ đầu tư cho nghiên cứu và phát triển của doanh nghiệp công nghệ trong nước còn khiêm tốn so với quốc tế. “Nhiều công ty lớn duy trì mức chi tiêu trên 5%, thậm chí có những doanh nghiệp như Huawei, Ericsson, Nokia duy trì trên 20% doanh thu dành cho nghiên cứu và phát triển” - ông Đạt cho hay.

Việc ít đầu tư cho nghiên cứu và phát triển dẫn tới hệ quả là doanh nghiệp công nghệ của Việt Nam còn ít bằng sáng chế và bản quyền công nghệ có giá trị trên thị trường quốc tế. Viettel - một trong những doanh nghiệp dẫn đầu về các bằng sáng chế của Việt Nam - lũy kế có 260 bằng sáng chế trong những năm gần đây, trong khi riêng số lượng sáng chế năm 2022 của Samsung là hơn 24.000 sáng chế, của Huawei là hơn 8.400 sáng chế. Bên cạnh đó, dù có một nguồn nhân lực chất lượng cao nhưng Việt Nam đang thiếu chuyên gia đẳng cấp quốc tế trong các lĩnh vực công nghệ chiến lược như bán dẫn, hàng không, vũ trụ, lượng tử, trí tuệ nhân tạo…

Hệ sinh thái khởi nghiệp công nghệ trong nước chưa đủ mạnh, còn thiếu đội ngũ cố vấn chất lượng cao và kết nối quốc tế dẫn đến hạn chế trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh toàn cầu cho các doanh nghiệp, đặc biệt các doanh nghiệp khởi nghiệp. Trong khi đó, liên kết giữa nhà nước, doanh nghiệp, viện nghiên cứu còn chưa đồng bộ, mô hình tam giác cần được thúc đẩy hiệu quả hơn để phát huy tiềm năng của từng chủ thể. Cuối cùng, chiến lược xây dựng và thương hiệu toàn cầu của nhiều doanh nghiệp công nghệ vẫn còn ở giai đoạn đầu.

Chiến lược nuôi dưỡng các “đại bàng”

TS. Nguyễn Nhật Quang, Viện trưởng Viện KH&CN VINASA phát biểu tại Diễn đàn.

TS. Nguyễn Nhật Quang, Viện trưởng Viện KH&CN VINASA phát biểu tại Diễn đàn.

Kể câu chuyện trong khi Việt Nam đang thiếu nhân lực chuyển đổi số thì các doanh nghiệp hội viên của VINASA phần lớn “đi sống bằng nghề góp phần chuyển đổi số cho một số quốc gia giỏi hơn chúng ta”, ông Nguyễn Nhật Quang cho rằng, thứ Việt Nam cần là tạo ra một thị trường thúc đẩy sự tham gia và lớn mạnh cho các doanh nghiệp Việt.

“Với những bài toán lớn nhà nước đang đặt ra, công nghệ đang đặt ra, rất nhiều doanh nghiệp nhỏ hơn, chưa phải là “đại bàng” như Viettel cũng có thể tham gia đóng góp. Và thông qua việc tham gia đóng góp ấy, nhiều “đại bàng non” trưởng thành lên, để chúng ta không phải chỉ có 1, 2, 3, 4 mà chúng ta sẽ có hàng trăm, thậm chí hàng ngàn những cái doanh nghiệp quy mô như Viettel” - ông Nguyễn Nhật Quang nói.

Đúc kết kinh nghiệm từ những bài học thành công của Viettel, ông Nguyễn Đạt cho rằng, bên cạnh việc xây dựng các chương trình phát triển công nghệ sản phẩm chiến lược thì nhà nước cần có định hướng dài hạn phát triển các sản phẩm công nghệ chiến lược, một ngành công nghiệp, giúp doanh nghiệp công nghệ tăng năng lực cạnh tranh.

“Cần xây dựng Quỹ đầu tư cho công nghệ và công nghiệp chiến lược. Các dịch vụ, sản phẩm công nghệ công nghiệp chiến lược của doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân tạo ra có thể được hỗ trợ thông qua Quỹ này” - ông Đạt đề xuất.

Theo ông Nguyễn Đạt, việc này sẽ giúp doanh nghiệp trong giai đoạn đầu có điều kiện hoàn thiện sản phẩm với tính năng, chất lượng, giá và góp phần tăng năng lực cạnh tranh trên thị trường quốc tế.

Bên cạnh đó, nhà nước có thể hình thành các khu công nghiệp chuyên biệt cho các ngành công nghiệp chiến lược ví dụ khu công nghiệp hàng không, khu công nghiệp bán dẫn… để thuận lợi cho việc phát triển hệ sinh thái trong các ngành công nghiệp chiến lược. Đồng thời, tái ban hành tiêu chí đánh giá tỉ lệ nội địa hóa theo hướng coi trọng hơn tỉ trọng làm chủ hoạt động nghiên cứu, thiết kế sản phẩm thay vì chỉ dựa trên giá trị nguyên vật liệu, linh kiện phụ tùng, nhân công, dịch vụ hay tài sản cố định trong nước.

“Việc áp dụng tiêu chí này sẽ tạo điều kiện cho doanh nghiệp gia tăng thị phần, ổn định nền tảng vững chắc khi mở rộng ra quốc tế” - ông Đạt giải thích.

Để nâng cao giá trị sản phẩm, theo ông Đạt, Việt Nam cần xây dựng các viện nghiên cứu chiến lược có tầm cỡ trong khu vực gắn kết với doanh nghiệp lớn theo mô hình ba nhà: Nhà nước, doanh nghiệp, viện trường. Khi nhà nước giao nhiệm vụ phát triển công nghệ chiến lược cho một đơn vị chủ trì là viện, trường hoặc doanh nghiệp thì bắt buộc phải có sự tham gia phối hợp của các đơn vị còn lại. “Cơ chế này nhằm đảm bảo sự gắn kết chặt chẽ giữa năng lực nghiên cứu khoa học của viện trường, khả năng ứng dụng triển khai thực tế của doanh nghiệp, từ đó nâng cao hiệu quả chuyển giao và thương mại hóa công nghệ” - ông Đạt phân tích.

Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia với rất nhiều đột phá về chính sách dành cho khoa học và công nghệ đang được kỳ vọng sẽ là bệ đỡ, tạo hành lang pháp lý cho doanh nghiệp khoa học công nghệ Việt Nam vươn mình.

Hiền Thảo

Nguồn Doanh Nghiệp: https://doanhnghiepvn.vn/cong-nghe/giai-phap-de-doanh-nghiep-viet-vuon-minh-thanh-dai-bang-cong-nghe/20250904124159924
Zalo