Gia tăng nhập khẩu linh kiện lắp ráp ô tô tại Việt Nam
Linh kiện phụ tùng ô tô nhập khẩu tăng 18% trong khi sản lượng lắp ráp xe nội địa chỉ tăng 11%, cho thấy xu hướng nhập khẩu linh kiện về lắp CKD tại Việt Nam.
Năm 2024, Việt Nam nhập khẩu 173.561 ô tô nguyên chiếc các loại (trị giá 3,618 tỷ USD), trong đó xe dưới 9 chỗ là 142.773 chiếc (trị giá 2,457 tỷ USD), xe trên 9 chỗ ngồi là 401 chiếc (trị giá 8,99 triệu USD), xe tải 15.008 chiếc (trị giá 518 triệu USD), số còn lại là xe chuyên dùng, dẫn từ thống kê sơ bộ của Tổng cục Hải quan công bố ngày 10/1/2025.
Về linh kiện phụ tùng ô tô, năm 2024 cả nước nhập về lượng phụ tùng linh kiện trị giá 4,864 tỷ USD, tăng 18% so với lượng nhập khẩu năm 2023 (4,11 tỷ USD).
Xét về giá trị tuyệt đối, giá trị phụ tùng linh kiện nhập khẩu luôn cao hơn giá trị nhập khẩu xe nguyên chiếc khoảng 25%, xu hướng tăng qua từng năm.
So với sản lượng xe lắp ráp 347 nghìn chiếc (2023) và 388 nghìn chiếc (2024), mức tăng sản lượng lắp ráp là 11%, nhưng lượng linh kiện nhập khẩu 4,11 tỷ USD (2023) và 4,86 (2024), mức tăng là 18%.
Theo các chuyên gia, giá trị nhập khẩu linh kiện phụ tùng tăng là dễ hiểu, tương ứng với sản lượng ô tô lắp ráp trong nước ngày một tăng.
Đơn cử, năm 2020 các doanh nghiệp ô tô tại Việt Nam xuất xưởng khoảng 275 nghìn xe, năm 2021 xuất xưởng khoảng 300 nghìn xe.
5 năm sau con số này đã là 388 nghìn xe lắp ráp, tăng trưởng xe lắp ráp gần 30% so với thời điểm này năm năm trước.
Theo Cục Công nghiệp (Bộ Công thương), cả nước hiện có 377 doanh nghiệp trong lĩnh vực sản xuất ô tô, trong đó có 169 doanh nghiệp FDI, chiếm tỷ lệ 46,43%.
Số lượng nhà sản xuất, cung ứng trong nước cho ngành công nghiệp ô tô còn khiêm tốn.
Tổng số sản phẩm trong ngành này là 1.221 sản phẩm, trong đó đa số là sản phẩm công nghiệp hỗ trợ, hàm lượng công nghệ trung bình và thấp, có giá trị nhỏ trong cơ cấu giá trị của một chiếc ô tô.
Con số này thấp hơn rất nhiều so với mục tiêu đề ra và so với các quốc gia trong khu vực như Thái Lan, Indonesia và Malaysia.
Tỷ lệ nội địa hóa đối với xe cá nhân đến 9 chỗ ngồi còn thấp, mục tiêu đề ra là 30 - 40% vào năm 2020, 40 - 45% vào năm 2025 và 50 - 55% vào năm 2030 nhưng con số thực tế hiện nay mới đạt bình quân khoảng 7-10%, thông tin được cung cấp từ doanh nghiệp.
Tỷ lệ nội địa hóa hiện có Thaco đạt khoảng 15-18%, Toyota Việt Nam đạt 37% đối với riêng dòng xe Innova, hãng VinFast hiện cao nhất đạt 60% và phấn đấu đạt 84% vào năm 2026.