Gạo 100% tấm của Việt Nam không đủ để xuất khẩu
Chủng loại gạo 100% tấm của Ấn Độ khác với Việt Nam. Do đó, việc Ấn Độ gỡ lệnh cấm xuất khẩu gạo 100% tấm sẽ không ảnh hưởng đến gạo Việt.
Phóng viên Báo Công Thương có cuộc trao đổi với ông Nguyễn Văn Thành - Giám đốc Công ty TNHH sản xuất thương mại Phước Thành IV (Vĩnh Long) xung quanh vấn đề này.
- Cuối ngày 7/3 (giờ địa phương), Chính phủ Ấn Độ đã chính thức gỡ bỏ lệnh cấm xuất khẩu gạo 100% tấm. Quyết định này có ảnh hưởng đến giá gạo xuất khẩu cũng như xuất khẩu gạo của Việt Nam không thưa ông?
Ông Nguyễn Văn Thành: Tôi cho rằng, việc Chính phủ Ấn Độ chính thức gỡ bỏ lệnh cấm xuất khẩu gạo 100% tấm không những không ảnh hưởng đến gạo Việt Nam mà thậm chí chúng ta sẽ được hưởng lợi.

Ấn Độ gỡ bỏ lệnh cấm xuất khẩu gạo 100% tấm sẽ không ảnh hưởng đến những người trồng lúa Việt Nam
Bởi hiện nay, cùng với việc xuất khẩu, khoảng thời gian từ năm 2018 trở lại đây, Việt Nam cũng nhập khẩu gạo từ các nước Ấn Độ, Myanmar, Pakistan, Campuchia. Điều này không phải là nghịch lý mà hợp lý.
Nguyên nhân do, nông dân Việt Nam chuyển dần sang trồng các giống gạo thơm, giá trị gia tăng cao. Trong khi để làm bún, bánh, thức ăn chăn nuôi cần gạo có giá mềm, phân khúc thấp. Việt Nam phải nhập gạo tấm từ Ấn Độ hay các nước khác để bù lại nguồn cung, vừa duy trì năng lực sản xuất, vừa giúp gạo Việt Nam không tăng giá lên cao do yếu tố cung cầu.
Việc Ấn Độ gỡ lệnh cấm xuất khẩu gạo 100% tấm, doanh nghiệp chế biến bún, bánh, thức ăn chăn nuôi mua với mức giá thấp hơn, bù đắp khoảng trống gạo phân khúc thấp nên tôi đánh giá không ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất của nông dân, đến những người trồng lúa, cũng như giá gạo xuất khẩu của Việt Nam.
- Hiện, trong chủng loại xuất khẩu gạo Việt có gạo 5% tấm, gạo 25% tấm và gạo 100% tấm. Vậy gạo 100% tấm xuất khẩu của Việt Nam liệu có chịu tác động bởi chính sách này?
Ông Nguyễn Văn Thành: Hiện, Việt Nam chủ yếu trồng các giống lúa gạo thơm, gạo chất lượng cao. Gạo 100% tấm của Việt Nam xuất khẩu cũng có, nhưng giống gạo 100% tấm của Việt Nam khác so với gạo 100% tấm của Ấn Độ. Gạo 100% tấm của Việt Nam là giống gạo thơm dẻo, và được dùng làm gạo ăn.

Ông Nguyễn Văn Thành - Giám đốc Công ty TNHH sản xuất thương mại Phước Thành IV (Vĩnh Long)
Trong thời gian vừa qua, chúng tôi cũng xuất khẩu khá nhiều chủng loại gạo này. Trong gói thầu của doanh nghiệp, hiện nay chúng tôi cũng đang xuất khẩu khoảng hơn 100 nghìn tấn, đơn hàng này cũng đều là tấm thơm hết.
Phân khúc thị trường xuất khẩu 100% của Việt Nam cũng khác với Ấn Độ. Trên thực tế, lượng gạo xuất khẩu 100% tấm của Việt Nam trong thời gian vừa qua cũng không đủ so với nhu cầu của thị trường.
Hiện, gạo 100% tấm chiếm khoảng 15% tổng lượng gạo của Việt Nam. Trong số này, tiêu dùng trong nước khoảng 5%, còn lại xuất khẩu khoảng 5-10%. Lượng gạo xuất khẩu 25% tấm của Việt Nam cũng đang dần ít đi, còn phần lớn là gạo 5% tấm.
Riêng với gạo 5% tấm hiện nay có 3 phân khúc lớn. Trong đó, 10-15% là gạo IR504 (gạo cấp thấp) xuất khẩu sang các thị trường Indonesia, Malaysia. 1 năm chúng ta xuất khẩu khoảng trên dưới 1 triệu tấn.
Phân khúc thứ hai là gạo thơm, chất lượng cao. Hiện nay, phân khúc này chiếm khoảng 70-80% với các loại chủng loại gạo OM 5451, OM 18, Đài Thơm 8. Thị trường xuất khẩu chính của gạo Việt Nam là Philippines cũng đang nhập chủ yếu là chủng loại gạo chất lượng cao. Bên cạnh đó, các thị trường khác như Trung Quốc, Trung Đông cũng thích dòng gạo này. Tuy nhiên, phân khúc thị trường Trung Đông không lớn.
Phân khúc thứ ba là các dòng gạo Japonica và gạo đặc sản khác (tỷ trọng 4%) chủ yếu tiêu thụ tại Nhật Bản, Hàn Quốc và thị trường cao cấp khác như Mỹ, EU. Dòng gạo Japonica hiện có một ngách thị trường riêng, nhu cầu lớn, giá bán cũng rất cao. Trong khi đó, với dòng gạo ST25, hiện chúng ta xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc, EU là chính.
Ở các thị trường này, gạo Việt Nam cũng không bị cạnh tranh, nguyên nhân do bộ giống của chúng ta rất tốt. Như vậy, với dòng gạo Japonica và gạo đặc sản, trong nước, Trung Quốc, Mỹ và EU chúng ta đều có thị trường. Giá bán đối với chủng loại gạo này rất tốt và không bị giảm giá so với các dòng gạo khác.
- Như ông chia sẻ, việc Ấn Độ gỡ lệnh cấm xuất khẩu gạo 100% tấm sẽ không ảnh hưởng đến giá gạo xuất khẩu của Việt Nam. Từ đầu năm đến nay, giá gạo xuất khẩu sụt giảm, xu hướng tăng giá vẫn chưa chắc chắn. Vậy, giá gạo xuất khẩu của Việt Nam đã chạm đáy chưa, thưa ông?
Ông Nguyễn Văn Thành: Giá gạo chạm đáy hay chưa? Theo tôi thì đã chạm đáy rồi. Bởi lẽ, trong giai đoạn 2020-2022, chúng ta cũng ghi nhận giá gạo xuất khẩu thấp nhất ở mức này. Tuy nhiên, khi bước sang năm 2023, khi Ấn Độ ban hành lệnh cấm xuất khẩu đã làm cho giá gạo xuất khẩu trên thị trường thế giới biến động lớn, từ 38-45%, trong đó có gạo Việt Nam.
Trong bối cảnh giá lúa gạo trong nước và giá gạo xuất khẩu giảm. Về phía các doanh nghiệp xuất khẩu cũng gặp những khó khăn nhất định. Lực của doanh nghiệp còn hạn chế, vấn đề kho bãi cũng chỉ chứa được từ 7-8 triệu tấn.
Trong khi đó, các doanh nghiệp xuất khẩu hầu như chưa có hợp đồng. Những doanh nghiệp xuất khẩu nào có hợp đồng thì họ mới vay tiền ngân hàng và giải ngân tại các hạn mức trên hợp đồng và mua lúa gạo vào nhiều. Với các doanh nghiệp tài chính yếu họ cũng phải đợi khi có hợp đồng thì mới mua vào.
Trong thời gian vừa qua, vấn đề giá lúa gạo, giá gạo xuất khẩu được Chính phủ và các bộ, ngành quan tâm, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc liên quan đến thời hạn, hạn mức vay, điều kiện vay vốn và giải ngân để làm sao các doanh nghiệp có thể mua được lúa gạo cho bà con.
Dù vậy, về phía doanh nghiệp khu vực Đồng bằng sông Cửu Long hiện vẫn đang gặp những khó khăn, hạn chế nhất định, trong đó phải kể đến vấn đề nguồn vốn. Một số doanh nghiệp muốn mua dự trữ nhưng họ cũng không có tiền, hạn mức giới hạn, tài sản đảm bảo không có, do đó, việc giải ngân được cũng rất khó. Về phía các ngân hàng thương mại cũng muốn giải ngân, nhưng vấn đề hấp thụ nguồn vốn này không dễ, bởi vấn đề làm sao để đảm bảo đúng pháp luật.
Xin cám ơn ông!
Theo báo cáo của Bộ Nông nghiệp và Môi trường, năm 2025, dự kiến sản lượng lúa đạt 43,1 triệu tấn, tương đương khoảng 27,4 triệu tấn gạo (sau chế biến và trừ hao tổn thất). Trong đó, tiêu dùng trong nước khoảng 21 triệu tấn; sản xuất chế biến khoảng 4 triệu tấn; xuất khẩu khoảng 6-6,5 triệu tấn; dự trữ và thương mại nội địa khoảng 2,5 triệu tấn.