Đức Di Lặc trong truyền thống Phật giáo Đại thừa
Đức Di Lặc là Phật tương lai. Danh hiệu của Ngài bắt nguồn từ chữ mitra, có nghĩa là hữu hảo hoặc thân thiện.
Cũng như Đức Thích Ca trước lúc đản sanh, Đức Di Lặc hiện đang ngụ tại cung trời Đâu-suất (Tusịta), thuộc tầng trời thứ sáu và là cõi cao nhất của dục giới, để chờ giáng trần. Giống như Đức Thích Ca xưa kia, Ngài cũng sẽ hạ sanh làm thái tử, xuất gia, và thành Phật.
Phật giáo dạy giáo lý vô thường. Giống các pháp trong vũ trụ, bản thân giáo pháp của Phật (Dharma) cũng không tồn tại mãi. Theo niềm tin chung của người theo đạo Phật thì sau khi Đức Phật nhập diệt, năm trăm năm sau là thời Chánh pháp. Thời này, Phật giáo phát triển phồn vinh. Mọi người thâm tín Tam bảo và sống theo lời Phật dạy. Phật tử hộ trì Tăng-già và giác ngộ dễ dàng. Tiếp đó là thời tượng pháp, dài một ngàn năm. Thời này, Phật giáo tàn tạ từ bên trong, dù hình tướng bề ngoài vẫn không thay đổi. Tăng Ni không chịu tu tập, cư sĩ không còn hộ trì Tăng-già mạnh mẽ như trước, và rất khó đạt giác ngộ.
Cuối cùng là thời mạt pháp, Phật giáo diệt vong. Trong suốt mười ngàn năm của thời mạt pháp, Phật giáo sẽ suy tàn từ trong ra ngoài, tới khi không còn Tăng Ni, chùa chiền gì nữa. Mọi hình ảnh chư Phật và Bồ-tát, kinh sách, thánh tích sẽ biến mất khỏi thế gian, Phật giáo không còn dấu tích. Tới lúc ấy, thiên tai, nhân họa cũng đồng loạt xuất hiện. Khi thế giới đến hồi kết, Đức Di Lặc sẽ xuất hiện và canh tân Phật giáo. Thế giới lúc này sẽ phục hồi, mọi người lại được sống trong cảnh hòa bình, thịnh vượng.
Đại sư Đạo An (312-385) là một tín đồ của Đức Di Lặc, hằng mong được tái sanh vào cõi trời Đâu-suất để hội kiến Đức Di Lặc và được nghe Ngài giảng pháp. Nhưng nhiều người cũng muốn được tái sanh làm người khi Đức Di Lặc hạ sanh. Theo kinh Di Lặc đại thành Phật và kinh Di Lặc hạ sanh, thì sau 5,6 tỷ năm ở cung trời Đâu-suất, Đức Di Lặc sẽ thành Phật dưới cội cây long hoa và thuyết pháp Tứ đế, Duyên khởi cho chư thiên và nhân loại. Ngài sẽ tổ chức ba hội thuyết pháp (Long hoa tam hội), tất cả những ai tham dự đều sẽ thành Phật.
Hình ảnh Đức Di Lặc rất đặc biệt trong tư thế kiết-già. Ngài còn được diễn tả bằng dáng vẻ trầm tư, một tay tựa cằm còn tay kia đặt trên chân phải đang gác trên gối trái. Trong các bi ký, nhiều tín chủ tạo tượng Di Lặc phát nguyện “được nghe giáo pháp tại hội Long hoa khi Đức Di Lặc hạ sanh”. Trong mọi tầng lớp xã hội hiến cúng tôn tượng Di Lặc thì giới quan lại, Tăng Ni vẫn chiếm đa số, so với giới bình dân.
Những thế kỷ sau thời nhà Đường, sự sùng bái Đức Di Lặc đã bị lu mờ trước những tín ngưỡng chư Phật và Bồ-tát khác, chẳng hạn tín ngưỡng Di Đà, Dược Sư, Quan Âm. Bởi vì sự xuất hiện của Đức Phật tương lai có liên quan đến sự khởi đầu của một trật tự thế giới mới, nên điều này đã khích lệ những kỳ vọng thiên niên kỷ. Kể từ thế kỷ XII, các phong trào do những nhân vật nổi loạn tự xưng là sứ giả Di Lặc hoặc thậm chí là hóa thân Di Lặc cầm đầu liên tục nổi dậy dù bị triều đình đàn áp. Nhiều giáo phái với những tên gọi khác nhau nhưng có cùng niềm tin Di Lặc đã không ngừng thách thức chính quyền trung ương trên khắp đất nước Trung Quốc vào giai đoạn vãn kỳ của đế chế.
Thời này, tín ngưỡng Di Lặc cũng phát huy tầm ảnh hưởng đến văn hóa đại chúng. Vào thế kỷ XIII, dân chúng xem một nhà sư có phép thần thông biến hóa như hóa thân của Đức Di Lặc. Ngài có danh hiệu Bố Đại Hòa thượng vì thường khoác trên vai một chiếc đãy bằng vải, không sống trong chùa mà lang thang tự tại giữa chốn bình dân. Ngài cho trẻ em quà bánh và giúp đỡ người nghèo khó.
Truyền thuyết này đã tạo nên hình ảnh Đức Phật Di Lặc phơi trần cái bụng phệ với nụ cười hết cỡ, tượng trưng cho sự phồn vinh và may mắn. Ngài được miêu tả bằng cái bụng phệ chứ không phải vòng eo bình thường như hình mẫu Ấn Độ thời trước. Sở dĩ có điều này là do trước đây người Trung Quốc coi việc ăn uống no đủ tới mức hơi béo tốt như một dấu hiệu của sự sung túc. Thực tế mới đây thôi, vào đầu thế kỷ XX, khi có khách đến chơi thì câu chào hỏi đầu tiên của chủ nhà là “Ăn gì chưa?”, rồi sau đó bằng câu “Trông anh béo tốt phương phi quá!”.
Khi bước vào một ngôi chùa Phật giáo thì pho tượng Di Lặc tươi cười là hình ảnh đầu tiên mà mọi người sẽ gặp ở tiền đường trước lúc lên chánh điện. Đây cũng là hình ảnh thường thấy nơi các nhà hàng Trung Quốc và tiệm bán đồ lưu niệm. Đáng lẽ là bậc thiền giả trầm tư, Ngài đã biến thành một biểu tượng cát tường chào đón du khách đến chùa và mời mọc khách hàng tới những nơi kinh doanh mua bán.
Vu Quân Phương
Nghi Thủy dịch
(Nguồn: Chün-fang Yü, Chinese Buddhism: a thematic history. Honolulu: University of Hawai‘i Press, 2020, pp. 78 – 80.)