'Đứa bé' trong 'chậu nước chính sách' đối với thị trường vàng
Nếu chính sách đối với thị trường vàng Việt Nam, cho tới nay, là một chậu nước tắm đã đến lúc cần phải thay, thì đâu là phần nước phải đổ đi và đâu là đứa trẻ cần giữ lại?

Đưa vàng trở về vai trò như một tài sản. Đây chính là “đứa bé” của chính sách vàng. Ảnh: LÊ VŨ
Các triết gia qua những cuộc tranh luận tư tưởng triền miên trong hành trình nhân loại, thường xác định cho họ nhiệm vụ phải đổ đi những chậu nước chứa đựng tư duy cũ mà họ cho là đã không còn đúng nữa. Nhưng họ cũng đồng thời thừa nhận và kính trọng các triết gia tiền bối, bằng việc thừa nhận còn có một đứa trẻ (hạt nhân hợp lý) trong mỗi chậu nước ấy. Và nhiệm vụ của kẻ hậu sinh là cần nhìn thấy và giữ lại đứa bé, trong lúc mạnh dạn đổ chậu nước đi.
Vậy nếu chính sách đối với thị trường vàng Việt Nam, cho tới nay, là một chậu nước tắm đã đến lúc cần phải thay, thì đâu là phần nước phải đổ đi và đâu là đứa trẻ cần giữ lại?
Để phần nào hiểu thêm nguồn gốc và lý do của việc ra đời Nghị định 24/2012/NĐ-CP ngày 3-4-2012 về quản lý hoạt động kinh doanh vàng, độc giả có thể tìm lại bài viết của tôi cũng trên ấn phẩm này (Kinh tế Sài Gòn) vào tháng 4-2013. Trong bài viết đó, tôi giải thích mục tiêu căn bản của chính sách về vàng mà lần đầu tiên được thực thi, đó là tách vàng ra khỏi lưu thông. Nói cách khác, tách vàng khỏi hệ thống tín dụng, và loại bỏ vàng ra khỏi hệ thống tài chính với tư cách là một phần của phương tiện lưu thông tiền tệ, đưa vàng trở về vai trò như một tài sản. Đây chính là “đứa bé” của chính sách vàng.
Đã gần tròn một thập niên trôi qua kể từ khi chúng ta để lỡ một cơ hội điều chỉnh chính sách cho thị trường vàng. Độc giả có thể hình dung được lợi ích khổng lồ đã tích lũy lớn thế nào trong những nhóm được hưởng lợi từ chính sách đó. Giờ đây, chúng ta có đủ khả năng để đổ đi chậu nước đã cũ - là sự độc quyền trên thị trường vàng hay không?
Vào thời điểm đó, quyền lực của thị trường vàng mạnh tới mức cơ quan điều hành tiền tệ (tức Ngân hàng Nhà nước - NHNN) đã gần như bất lực trong việc kiểm soát thị trường vàng và những hậu quả lan tỏa của nó đến các yếu tố vĩ mô như thị trường ngoại hối - khi đó còn mong manh vì dự trữ ngoại hối của Việt Nam còn thấp. Bằng chứng là Thông tư 11/2011/TT-NHNN của NHNN ban hành trước đó hai năm (ngày 29-4-2011) quy định “về chấm dứt huy động và cho vay vốn bằng vàng của tổ chức tín dụng” đã không có mấy tác dụng vì sức mạnh của các nhóm lợi ích đang hoành hành trên thị trường vàng.
Như tôi sẽ giải thích trong bài viết này một lần nữa, rằng nguyên tắc của một thị trường vàng đúng đắn và một thị trường tài chính - tiền tệ lành mạnh, là vàng không được phép sử dụng như một phương tiện dành cho huy động và cho vay trên thị trường tín dụng (tức là đóng một phần vai trò của phương tiện lưu thông tiền tệ). Điều tương tự cũng cần áp dụng cho đô la Mỹ hay bất cứ một đồng tiền nước ngoài nào. Chỉ một thứ duy nhất được huy động và cho vay trên thị trường tín dụng là đồng tiền quốc gia, vì đó là phương tiện lưu thông tiền tệ pháp định duy nhất.
Chỉ có như thế, một quốc gia mới duy trì và điều hành được một chính sách tiền tệ độc lập, và qua đó thực thi chủ quyền kinh tế và tiền tệ trên lãnh thổ của mình. Vàng và ngoại tệ có thể được dùng rộng rãi trên thị trường, nhưng chỉ như một tài sản được mua đi bán lại, chứ không thể là một phương tiện tham gia lưu thông tiền tệ theo nghĩa như được đề cập ở trên.
Suốt từ khi đặt những bước chân đầu tiên vào nền kinh tế thị trường cho tới trước giai đoạn 2011, nền tài chính Việt Nam đã bị vàng hóa và đô la hóa triền miên như một căn bệnh trầm kha kinh niên mà các nhà điều hành tiền tệ hầu như phải bó tay bất lực.
Đơn giản là vì trong suốt giai đoạn đó, bắt nguồn từ một số lý do lịch sử, các ngân hàng (và tổ chức tín dụng) được phép huy động vàng và ngoại tệ trong dân (tất nhiên là bằng cách trả lãi suất huy động), và tiếp đó là đem cho vay, giống như mọi nghiệp vụ kinh doanh tiền tệ điển hình khác. Điều này đã khiến việc giải bài toán “giá vàng - tỷ giá - lạm phát” trở thành bất khả, hệt như bài toán ba vật thể dịch chuyển trong trường hấp dẫn mà Newton vĩ đại cũng phải “xin hàng”.
Tuy nhiên, trong khi tìm cách thay chậu nước tắm mới cho thị trường vàng, cần lưu ý rằng trong chậu vẫn luôn có một đứa bé không thể bị hất đi: đó là nguyên tắc không được đưa vàng trở lại thị trường tín dụng, dưới bất cứ hình thức nào.
Trong bối cảnh đó, Nghị định 24 ra đời thay thế cho Thông tư 11 đã đưa ra nhiều giải pháp cứng rắn, trong đó có một giải pháp tình thế là Nhà nước sẽ tạm thời độc quyền thị trường vàng miếng thông qua nhãn hiệu vàng miếng SJC. Việc này khi đó đã dấy lên một cuộc tranh luận lớn. Đối với tôi, đây chính là một phần nước trong chậu tắm của đứa bé. Tôi đã ủng hộ chính sách này như một phương tiện tình thế nhằm đạt được mục tiêu mà Việt Nam chưa bao giờ đạt được, đó là loại bỏ tính chất tín dụng của vàng, đưa vàng trở về vị trí như một tài sản. Điều tương tự cũng đã thực hiện được trên thị trường ngoại hối, nghĩa là không còn chuyện ngân hàng nhận tiền gửi - trả lãi đối với ngoại tệ, cũng như việc cho vay kinh doanh bằng ngoại tệ một cách chính thức trong hệ thống tín dụng.
Nếu doanh nghiệp hay người dân có nhu cầu ngoại tệ, họ có thể mua trên thị trường ngoại hối. Họ có thể giữ ngoại tệ như một tài sản, lưu trữ trong két riêng hay trong tài khoản ngân hàng (để phục vụ thanh toán) hoặc bất cứ đâu, miễn là không được nhận tiền lãi từ việc cất giữ đó và các tổ chức cất giữ (như ngân hàng) không được phép đem ngoại tệ đó cho vay.
Tiếp đó, cũng vào tháng 4, nhưng là năm 2016, khi được hỏi về một trong những thách thức lớn đối với vị tân Thống đốc NHNN mới nhậm chức, tôi khẳng định trong một bài trả lời phỏng vấn, rằng đó là việc trả lại vàng về với thị trường. Có thể nói, tới lúc đó, sau bốn năm Nghị định 24 ra đời và đi vào cuộc sống, phương tiện tình thế là sự độc quyền vàng miếng của Nhà nước thông qua thương hiệu SJC đã hoàn thành nhiệm vụ của nó. Đã đến lúc đứa bé cần được thay chậu nước tắm. Và năm 2016 là thời điểm thích hợp, vì lúc đó Việt Nam đã đạt được ổn định kinh tế vĩ mô và thị trường vàng thế giới đang tương đối lắng dịu.
Tuy nhiên, một đặc điểm mà bất cứ nhà điều hành chính sách nào cũng cần hiểu rõ và dự liệu được trước, là khi một chính sách được thiết lập nhằm đạt mục tiêu A, nó cũng đồng thời hủy hoại một nhóm lợi ích X đang tồn tại, và bắt đầu hình thành nên một nhóm lợi ích Y trong môi trường của chính sách mới.
Do đó, khi mục tiêu chính sách A đã thành công, người điều hành muốn thay đổi chính sách để hướng tới mục tiêu mới B, người làm chính sách sẽ phải đối diện với sự kháng cự của chính nhóm lợi ích Y, vì đơn giản là Y nhận thấy lợi ích của họ sắp bị loại bỏ. Đây là lúc đòi hỏi sự công tâm và can đảm nơi người làm chính sách. Nếu họ không đủ dũng khí, họ sẽ bị nhóm lợi ích được hình thành và nuôi dưỡng bởi chính chính sách trước đó của họ “bắt giam” và thao túng.
Điều này đúng ở mọi khía cạnh, từ các chính sách về viễn thông, về năng lượng, về phát triển cơ sở hạ tầng, cho tới chính sách phát triển các tập đoàn (tư nhân hay nhà nước), chính sách giáo dục, chính sách y tế... và trong trường hợp này là chính sách vàng.
Đã gần tròn một thập niên trôi qua kể từ khi chúng ta để lỡ một cơ hội điều chỉnh chính sách cho thị trường vàng. Độc giả có thể hình dung được lợi ích khổng lồ đã tích lũy lớn thế nào trong những nhóm được hưởng lợi từ chính sách đó. Giờ đây, chúng ta có đủ khả năng để đổ đi chậu nước đã cũ - là sự độc quyền trên thị trường vàng hay không?
Thị trường tiền tệ và thị trường ngoại hối đã được ổn định hơn trước rất nhiều, nên chậu nước tắm mới dành cho thị trường vàng chính là một thị trường tài sản lành mạnh, với quyền sở hữu và quyền giao dịch được luật pháp bảo vệ, có thiết chế giao dịch minh bạch và đáng tin cậy, bảo đảm tính cạnh tranh, đa dạng các thành phần tham gia cùng những luật chơi phù hợp. Vàng là tài sản của người dân, và nó cần được bảo vệ như mọi tài sản khác.
Đồng thời, không nên lo sợ rằng người dân sẽ nắm giữ quá nhiều vàng. Bởi vì với một thị trường nội địa cạnh tranh, minh bạch và liên thông linh hoạt với thị trường thế giới, người dân đủ khôn ngoan để biết nắm giữ tài sản nào có lợi nhất cho họ, và do đó là cho quốc gia. Muốn người dân giảm bớt nắm giữ vàng, thì cần phải tồn tại các công cụ tài chính hấp dẫn hơn vàng để họ tự do lựa chọn. Điều này lại tùy thuộc vào sự phát triển kinh tế trong nước nói chung, và thị trường tài chính nói riêng.
Tuy nhiên, trong khi tìm cách thay chậu nước tắm mới cho thị trường vàng, cần lưu ý rằng trong chậu vẫn luôn có một đứa bé không thể bị hất đi: đó là nguyên tắc không được đưa vàng trở lại thị trường tín dụng, dưới bất cứ hình thức nào. Nguyên tắc này được thể hiện từ việc không cho phép hệ thống tổ chức tín dụng huy động và cho vay bằng vàng, cho tới việc Nhà nước không tìm cách phát hành trái phiếu huy động vàng, cũng như tổ chức “huy động vàng trong dân” theo cách cũ (xuất phát từ một ám ảnh vang vọng từ dĩ vãng chống lại thị trường, khi não trạng thiếu tôn trọng quyền sở hữu của người dân còn phổ biến; có lẽ cũng chính não trạng này đã khiến việc thay chậu nước tắm cho đứa bé bị trì hoãn, và nguy hiểm hơn, có thể vào một lúc nào đó, thậm chí sẽ hất đi đứa bé).