Đòn bẩy để phát triển ngành công nghiệp đường sắt trong nước

Theo đánh giá của đại biểu Quốc hội, tuyến đường sắt Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng sẽ là đòn bẩy để phát triển ngành công nghiệp đường sắt trong nước.

"Sợi dây" kết nối các khu công nghiệp lớn

Đối với các hành lang kinh tế có nhu cầu vận tải lớn, vận tải đường sắt đóng vai trò quan trọng do có ưu thế chở được khối lượng lớn với chi phí thấp. Do đó, việc xây dựng các tuyến đường sắt để kết nối các khu vực trong hành lang kinh tế là một giải pháp mang lại hiệu quả cao trong việc khai thác, mở rộng không gian phát triển kinh tế của một vùng, một quốc gia.

Theo Quy hoạch tổng thể quốc gia, Việt Nam định hướng phát triển theo 13 hành lang kinh tế, trong đó Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng có nhu cầu vận tải hành khách, hàng hóa lớn thứ hai cả nước (sau hành lang kinh tế Bắc - Nam phía Đông). Trục Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng nằm trong sáng kiến kinh tế chiến lược "Hai hành lang một vành đai" giữa Việt Nam và Trung Quốc.

Sau khi chủ trương đầu tư dự án đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc - Nam được Quốc hội thông qua, Chính phủ tiếp tục trình Quốc hội cho ý kiến, phê duyệt chủ trương đầu tư dự án đầu tư xây dựng tuyến đường sắt Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng.

Tuyến đường sắt Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng được kỳ vọng sẽ đảm nhiệm vận tải, trục kết nối các trung tâm đô thị, khu công nghiệp lớn. Ảnh: Giang Huy

Tuyến đường sắt Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng được kỳ vọng sẽ đảm nhiệm vận tải, trục kết nối các trung tâm đô thị, khu công nghiệp lớn. Ảnh: Giang Huy

Tuyến đường sắt này được kỳ vọng sẽ đảm nhiệm vận tải, trục kết nối các trung tâm đô thị, khu công nghiệp lớn của vùng trung du và miền núi phía Bắc, vùng đồng bằng sông Hồng, là tuyến đường sắt ngắn nhất để vận tải hàng hóa từ Tây Nam Trung Quốc đến cảng biển quốc tế.

Theo nội dung báo cáo nghiên cứu tiền khả thi Dự án đầu tư xây dựng tuyến đường sắt Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng kết nối với Trung Quốc được Bộ Giao thông vận tải trình lên Chính phủ, tuyến đường sắt này sẽ kết nối cửa khẩu quốc tế Hà Khẩu - Lào Cai với cảng biển cửa ngõ quốc tế Hải Phòng, đi qua 9 địa phương, chiếm khoảng 20% dân số, 25,4% GRDP và 25% khu công nghiệp trên cả nước.

Dự báo đến năm 2050, tổng nhu cầu vận tải trên hành lang này là 397 triệu tấn hàng hóa và 334 triệu hành khách. Để tái cơ cấu thị phần vận tải, giảm chi phí logistics, đường sắt cần đảm nhận khoảng 25,6 triệu tấn hàng hóa, 18,6 triệu hành khách.

Tuy nhiên, tuyến đường sắt hiện hữu xây dựng từ thời Pháp, khổ 1.000 mm, tốc độ khai thác trung bình 50 km/h, chỉ đáp ứng khoảng 4,1 triệu tấn hàng hóa, 3,8 triệu hành khách, phục vụ cho khách du lịch chặng ngắn. Dự báo dù đã khai thác hết công suất đường bộ, đường thủy, đường sắt hiện hữu thì đến năm 2040 tuyến này vẫn không đáp ứng được nhu cầu vận tải, nhất là hàng hóa.

Do vậy, tuyến đường sắt mới khổ 1.435 mm sẽ an toàn hơn, chiếm dụng đất ít hơn đường bộ và thân thiện môi trường, đáp ứng nhu cầu vận tải trên hành lang. Sau khi xây dựng tuyến mới, hàng xuất nhập khẩu có thể vận chuyển bằng tàu liên vận đi suốt đến châu Âu, giảm giá thành vận tải, chi phí logistics. Việc đầu tư tuyến mới cũng tạo ra thị trường xây dựng, từ đó tác động tăng trưởng kinh tế.

Theo tính toán của Bộ Giao thông Vận tải, tuyến đường sắt Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng được xây dựng sẽ tạo ra thị trường có giá trị khoảng 4,4 tỷ USD, ước tính tạo ra 90.000 việc làm trong thời gian xây dựng và khoảng 2.500 việc làm lâu dài trong quá trình vận hành, khai thác. Nếu tính cả hệ thống đường sắt quốc gia, đường sắt đô thị, các dự án sẽ tạo ra thị trường xây dựng khoảng 98,2 tỷ USD và hàng triệu việc làm.

Đòn bẩy phát triển công nghiệp đường sắt

Cũng theo thông tin từ Bộ Giao thông Vận tải, đoàn tàu sử dụng trên tuyến đường sắt Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng sẽ được sử dụng công nghệ bảo đảm tính đồng bộ, tiên tiến, thuận lợi cho việc tiếp nhận, chuyển giao, phù hợp với điều kiện khai thác, đồng bộ với các tuyến kết nối quốc tế. Bộ đề xuất lựa chọn công nghệ động lực tập trung cho tàu khách và tàu hàng. Hệ thống thông tin, tín hiệu tương đương với hệ thống đang sử dụng ở các nước trong khu vực.

Kinh nghiệm thế giới cho thấy, định hướng phát triển công nghiệp phải dựa trên quy mô thị trường và trình độ phát triển các ngành công nghiệp luyện kim, cơ khí chế tạo và công nghiệp phụ trợ.

Bộ Giao thông Vận tải đề xuất định hướng phát triển công nghiệp đường sắt đến năm 2045 là làm chủ về công nghiệp xây dựng, lắp ráp trong nước và từng bước nội địa hóa phương tiện đối với đường sắt quốc gia, đường sắt đô thị; sản xuất trong nước và từng bước nội địa hóa linh kiện phần cứng, phần mềm về thông tin, tín hiệu và hệ thống cấp điện; làm chủ công tác vận hành, bảo trì và từng bước sản xuất một số linh kiện, phụ tùng thay thế đối với đường sắt tốc độ cao.

Đối với dự án đường sắt Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng, phương tiện và thiết bị là loại hình phù hợp để Việt Nam nhận chuyển giao công nghệ, đầu tư máy móc thiết bị và sản xuất đầu máy, toa xe cho đường sắt quốc gia với tốc độ nhỏ hơn 200 km/h.

Tổng công ty Đường sắt Việt Nam (VNR) đã lựa chọn các đối tác nước ngoài và trong nước phù hợp, ký biên bản ghi nhớ với Công ty TNHH Đầu máy và toa xe lửa Đại Liên. Nếu được thống nhất chủ trương hợp tác với Trung Quốc, VNR được cấp vốn để đầu tư nhà máy và nhận chuyển giao công nghệ, có thể sản xuất đầu máy, toa xe cho đường sắt quốc gia và đường sắt đô thị; nghiên cứu để từng bước sản xuất phụ tùng thay thế cho đường sắt tốc độ cao.

Đại biểu Hoàng Văn Cường (Đoàn đại biểu Quốc hội TP. Hà Nội) nêu ý kiến tại Quốc hội về tuyến đường sắt Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng. Ảnh: Quochoi.vn

Đại biểu Hoàng Văn Cường (Đoàn đại biểu Quốc hội TP. Hà Nội) nêu ý kiến tại Quốc hội về tuyến đường sắt Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng. Ảnh: Quochoi.vn

Liên quan tới vấn đề này, đại biểu Hoàng Văn Cường (Đoàn đại biểu Quốc hội TP. Hà Nội) cũng nhận định, tuyến đường sắt Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng không chỉ giải quyết vấn đề giao thông mà còn là đòn bẩy để chuyển giao công nghệ và phát triển ngành công nghiệp đường sắt trong nước, do đó, cần ưu tiên đặt hàng cho doanh nghiệp trong nước trong ba lĩnh vực: Xây dựng hạ tầng (đường, cầu, hầm), sản xuất đường ray và đóng toa xe.

Đại biểu cho rằng, các doanh nghiệp trong nước đã khẳng định năng lực đáp ứng nếu được Nhà nước đặt hàng. Việc này có thể tốn kém hơn mua hàng nước ngoài, nhưng sẽ tạo tăng trưởng kinh tế và GDP trong nước. Ngược lại, mua hàng nước ngoài sẽ không mang lại lợi ích này và không giúp chúng ta có ngành công nghiệp đường sắt.

Đại biểu nhấn mạnh, cần mạnh dạn đưa vào Nghị quyết chủ trương ưu tiên đặt hàng, đồng thời cam kết đảm bảo thị phần cho doanh nghiệp, để họ dám đầu tư công nghệ và sản xuất. Dẫn bài học từ ngành ô tô, đại biểu cho rằng, chia nhỏ thị phần khiến doanh nghiệp không thể đầu tư công nghệ, phải mua linh kiện về lắp ráp.

Tuyến đường sắt Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng có điểm đầu tại vị trí kết nối ray qua biên giới giữa ga Lào Cai mới và ga Hà Khẩu Bắc (Trung Quốc), điểm cuối tại khu bến Lạch Huyện, đi qua địa phận 9 tỉnh, thành phố; chiều dài tuyến chính khoảng 390,9 km và 3 tuyến nhánh khoảng 27,9 km. Quy mô đầu tư dự án là xây dựng mới tuyến đường sắt điện khí hóa khổ 1.435 mm, vận chuyển chung hành khách và hàng hóa.

Tuyến chính đoạn từ ga Lào Cai Mới đến ga Nam Hải Phòng tốc độ thiết kế 160 km/h, đoạn qua khu vực đầu mối Hà Nội tốc độ thiết kế 120 km/h, các đoạn nối, tuyến nhánh tốc độ thiết kế 80 km/h. Giải phóng mặt bằng đoạn tuyến chính theo quy mô đường đôi, phân kỳ đầu tư trước mắt theo quy mô đường đơn.

Dự án sử dụng công nghệ đoàn tàu động lực tập trung cho tàu khách và tàu hàng; hệ thống thông tin, tín hiệu tương đương với hệ thống đang sử dụng tại một số tuyến đường sắt vận chuyển chung hành khách và hàng hóa trong khu vực.

Dự án dự kiến bố trí 18 ga, ngoài ra dự kiến bố trí 13 trạm tác nghiệp kỹ thuật. Quá trình khai thác, khi nhu cầu vận tải tăng lên sẽ nghiên cứu, nâng cấp một số trạm tác nghiệp kỹ thuật thành ga hỗn hợp và đầu tư bổ sung các ga khi có nhu cầu. Dự kiến còn bố trí 1 đề-pô tàu hàng tại ga Yên Thường; 1 đề-pô tàu khách tại Yên Viên; 2 trạm chỉnh bị đầu máy, toa xe tại ga Lào Cai mới và ga Nam Hải Phòng. Sơ bộ tổng nhu cầu sử dụng đất khoảng 2.632 ha, số dân tái định cư khoảng 19.136 người.

Phong Lâm

Nguồn Công Thương: https://congthuong.vn/don-bay-de-phat-trien-nganh-cong-nghiep-duong-sat-trong-nuoc-374035.html
Zalo