Đổi mới cơ chế quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa

Sau 17 năm thực hiện, việc sửa đổi Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa là yêu cầu cấp thiết nhằm tăng cường hiệu lực, hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước về chất lượng sản phẩm, hàng hóa, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư…

Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa. Ảnh: VPQH

Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa. Ảnh: VPQH

Khắc phục sự chồng chéo, gây khó khăn cho doanh nghiệp

Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Lê Xuân Định cho biết, Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa được Quốc hội thông qua năm 2007, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2008. Qua gần 17 năm thực hiện, các văn bản hướng dẫn, chất lượng sản phẩm, hàng hóa ngày càng được nâng lên; sản phẩm, hàng hóa được kiểm soát chặt chẽ từ khâu trước khi đưa ra thị trường cho đến khâu sau khi đưa ra thị trường. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa 2007 phát sinh một số bất cập, hạn chế, đòi hỏi phải sửa đổi để phù hợp với thực tiễn và thúc đẩy sự phát triển.

Đáng chú ý, Thứ trưởng Lê Xuân Định nêu thực tế, công tác quản lý chất lượng sản phẩm hàng hóa hiện được giao cho nhiều ngành, lĩnh vực quản lý. Có những sản phẩm chịu sự quản lý của nhiều Bộ, ngành, phải áp dụng nhiều biện pháp kiểm tra chuyên ngành do quy định phân công quản lý tại các luật chuyên ngành khác nhau.

“Có những mặt hàng vừa phải kiểm tra hiệu suất năng lượng tối thiểu do Bộ Công Thương quản lý vừa phải kiểm tra chất lượng do Bộ, ngành khác quản lý như quạt điện, tủ lạnh, tủ kết đông, bóng đèn huỳnh quang…” - Thứ trưởng Lê Xuân Định dẫn ví dụ.

Bên cạnh đó, việc kiểm tra chất lượng hàng hóa nhập khẩu của một số Bộ, ngành chưa hoàn toàn theo các quy định của Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa là một trong những nguyên nhân dẫn đến kéo dài thời gian lưu trữ hàng hóa của doanh nghiệp ở cửa khẩu, gây khó khăn, tốn kém và mất cơ hội kinh doanh của doanh nghiệp.

Nhìn nhận vấn đề này, ông Hoàng Thanh Tùng - Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật và Tư pháp - chỉ rõ, thủ tục kiểm tra chuyên ngành hiện nay khá phức tạp và có sự chồng chéo, không thống nhất giữa các Bộ, ngành với cơ quan hải quan. Điều này gây phức tạp trong kiểm soát chất lượng sản phẩm, hàng hóa nói riêng, trong thủ tục hải quan nói chung và cũng gây khó khăn cho các doanh nghiệp.

“Đây là vấn đề lớn, trong lĩnh vực này cần phải tiếp tục rà soát để làm sao đơn giản hóa thủ tục hành chính, tập trung một đầu mối để cắt giảm được thủ tục theo đúng chỉ đạo đồng chí Tổng Bí thư” - ông Hoàng Thanh Tùng nói.

Khai thác triệt để thành tựu khoa học, công nghệ trong quản lý sản phẩm, hàng hóa

Trong sửa đổi, bổ sung Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa lần này, việc ứng dụng công nghệ trong quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa cũng là một trong những nhóm chính sách lớn nhận được nhiều ý kiến quan tâm.

Ứng dụng công nghệ giúp truy xuất nguồn gốc sản phẩm , hàng hóa thuận lợi. Ảnh minh họa: vneconomy.vn

Ứng dụng công nghệ giúp truy xuất nguồn gốc sản phẩm , hàng hóa thuận lợi. Ảnh minh họa: vneconomy.vn

Theo đó, Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung Điều 3 về giải thích từ ngữ, trong đó bổ sung khái niệm về “mã số, mã vạch”; “truy xuất nguồn gốc sản phẩm, hàng hóa”, “mã truy xuất nguồn gốc sản phẩm, hàng hóa”, “mã truy vết sản phẩm”, “mã truy vết địa điểm”; “nhãn hàng hóa”, “nhãn điện tử” và “hộ chiếu số của sản phẩm”. Đồng thời, Dự thảo Luật bổ sung Điều 7b về ứng dụng công nghệ trong quản lý chất lượng, truy xuất nguồn gốc sản phẩm, hàng hóa.

Theo Chính phủ, mã số, mã vạch là một công cụ hữu hiệu được ứng dụng phổ biến trong quản lý và được sử dụng bởi tất cả các bên trong chuỗi cung ứng như nhà sản xuất, bán lẻ, dịch vụ vận chuyển, cơ quan quản lý, người tiêu dùng… Trong bối cảnh cách mạng công nghiệp lần thứ tư, nhiều quốc gia trên thế giới (Mỹ, EU, Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Úc, Thái Lan,...) cũng đã ứng dụng công nghệ, trong đó có mã số, mã vạch trong việc giám sát, quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa, ghi nhãn điện tử.

“Mã số, mã vạch giúp thúc đẩy thương mại và hội nhập quốc tế thông qua việc: tạo thuận lợi cho doanh nghiệp tham gia thương mại điện tử toàn cầu; giúp truy xuất nguồn gốc sản phẩm thuận lợi, cung cấp dữ liệu sản phẩm cho đối tác thương mại; tích hợp với dữ liệu hải quan và cơ quan thuế nhằm tạo thuận lợi cho khai báo, thông quan, tính thuế; hỗ trợ kiểm soát luồng hàng xuất nhập khẩu” - Thứ trưởng Lê Xuân Định nhấn mạnh.

Cho ý kiến về Dự thảo Luật tại Phiên họp thứ 43 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội vừa qua, Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn nhấn mạnh yêu cầu, cần chú trọng nền tảng cho quản lý chất lượng, tạo thuận lợi cho hoạt động ứng dụng khoa học, công nghệ, hoạt động công nhận, thừa nhận lẫn nhau, giảm chi phí xét nghiệm, giảm thủ tục trong quản lý.

Nhấn mạnh việc ứng dụng khoa học, công nghệ, chuyển đổi số trong quản lý chất lượng, truy xuất nguồn gốc sản phẩm là nội dung đúng, trúng song Chủ tịch Quốc hội cho rằng, phải ứng dụng mạnh mẽ, khai thác triệt để thành tựu của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư như công nghệ chuỗi khối, Internet vạn vật, trí thông minh nhân tạo trong quá trình quản lý chất lượng, truy xuất nguồn gốc sản phẩm theo hướng có thể giảm được nhiều chi phí quản lý, có thể bỏ bớt thủ tục hành chính.

Trước tình hình hiện nay về chất lượng sản phẩm, hàng hóa, việc Chính phủ trình Quốc hội sửa đổi, bổ sung Luật là rất cần thiết để kinh tế phát triển trong thời gian tới có thể tăng trưởng 2 con số; dựa vào chất lượng sản phẩm, hàng hóa để tiêu thụ trong nước và xuất khẩu đi nước ngoài, bình đẳng tham gia các hiệp định đối với quốc tế mà chúng ta là thành viên và được quốc tế công nhận.

Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn

Phó Chủ tịch Quốc hội Lê Minh Hoan lưu ý, cần tiếp tục rà soát, thể chế hóa đầy đủ Nghị quyết số 57/NQ-TW về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia và Chỉ thị 38-CT/TW của Ban Bí thư về đẩy mạnh công tác tiêu chuẩn đo lường chất lượng quốc gia đến năm 2030 và những năm tiếp theo.

Theo đó, Dự thảo Luật cần làm rõ nội dung trọng tâm trong ứng dụng khoa học, công nghệ để quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa, cơ chế tài chính, cách tiếp cận, lộ trình, tận dụng được lợi thế về khoa học, công nghệ trong quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa. Đồng thời, rà soát các quy định công bố hợp chuẩn, hợp quy theo hướng áp dụng các công nghệ mới trong quản lý nhằm tiết kiệm chi phí, giảm tối đa thủ tục hành chính, tránh chồng chéo, trùng lặp, đảm bảo sự thống nhất việc công bố hợp quy ở các Bộ chuyên ngành./.

Đ. KHOA

Nguồn Kiểm Toán: http://baokiemtoan.vn/doi-moi-co-che-quan-ly-chat-luong-san-pham-hang-hoa-38840.html
Zalo