Doanh nghiệp toàn cầu ứng phó linh hoạt với bất ổn thương mại

Doanh nghiệp toàn cầu đang bị ảnh hưởng bởi chi phí gia tăng, gián đoạn chuỗi cung ứng và phải xem xét lại chiến lược cũng như kế hoạch đầu tư trong bối cảnh thuế quan và chính sách thương mại thay đổi tiếp tục tác động đến hoạt động kinh doanh của họ. Tuy nhiên, khảo sát Global Trade Pulse 2025 của HSBC cho thấy, bất chấp những khó khăn này, tâm lý lạc quan về mở rộng thương mại toàn cầu vẫn vững vàng.

Chi phí gia tăng đang trở thành mối quan ngại lớn nhất

Được thực hiện với sự tham gia của hơn 5.700 doanh nghiệp có doanh thu trong khoảng 50 triệu đến 2 tỷ USD tại 13 thị trường, kết quả khảo sát cho thấy, 66% doanh nghiệp cho biết đã và đang phải đối mặt với chi phí tăng do biến động thuế quan và chính sách thương mại. Dự kiến, con số này sẽ còn tăng cao hơn trong thời gian tới, với 73% dự báo chi phí tiếp tục leo thang trong ngắn hạn và 72% cho rằng xu hướng này sẽ kéo dài. Ngoài ra, sự gián đoạn chuỗi cung ứng khiến doanh nghiệp trung bình sụt giảm khoảng 18% doanh thu.

Chi phí gia tăng đang trở thành mối quan ngại lớn nhất trong chiến lược cung ứng của doanh nghiệp, với hơn một nửa (51%) xem đây là rào cản đáng kể nhất. Để thích ứng, 85% doanh nghiệp đã hoặc đang lên kế hoạch tăng giá để bù đắp chi phí cũng như phản ánh những biến động thị trường.

Bối cảnh hiện nay cũng buộc hơn 3/4 doanh nghiệp (78%) phải đánh giá lại mô hình kinh doanh dài hạn. Trong trường hợp tình trạng bất ổn thuế quan tiếp tục trong hai năm tới, 43% sẽ cân nhắc điều chỉnh chiến lược mở rộng ra quốc tế, trong khi 39% sẽ tập trung vào thị trường nội địa hoặc khu vực.

Tuy nhiên, một tín hiệu tích cực là có đến 89% doanh nghiệp vẫn tự tin vào tăng trưởng thương mại toàn cầu trong vòng hai năm tới. Nhiều doanh nghiệp đang đẩy mạnh chiến lược “nearshoring” - chuyển hoạt động sản xuất gần thị trường tiêu thụ chính (83%) và “reshoring” - đưa sản xuất trở lại quốc gia xuất xứ của doanh nghiệp (77%).

Lĩnh vực Công nghệ, Truyền thông và Viễn thông ghi nhận tỷ lệ cao nhất về khả năng áp dụng nearshoring (87%), đồng thời cũng là nhóm ngành chịu áp lực chi phí lớn nhất (76%), tiếp theo là Y tế và Hàng tiêu dùng (cùng 73%).

Đáng chú ý, 77% doanh nghiệp xem áp lực thương mại là chất xúc tác thúc đẩy đổi mới, sáng tạo. Nhiều công ty đã triển khai ứng dụng công nghệ mới (58%), tối ưu hóa nội bộ (56%) hoặc phát triển sản phẩm, dịch vụ mới (51%).

Khảo sát này cho thấy sự xuất hiện của những hành lang thương mại mới ở một số thị trường tham gia khảo sát và các doanh nghiệp toàn cầu đang củng cố các mối quan hệ tại những thị trường trọng yếu bên ngoài. Doanh nghiệp Malaysia (61%) và Việt Nam (52%) đang mở rộng quan hệ với Trung Quốc; doanh nghiệp Ấn Độ (54%) và Mỹ (51%) với châu Âu và doanh nghiệp Vương quốc Anh (46%) và Ấn Độ (62%) với Mỹ. Ở một số thị trường, tâm thế lạc quan về tăng trưởng thương mại quốc tế vẫn vững mạnh, dẫn đầu là Ấn Độ (96%) và Các Tiểu Vương Quốc Ả Rập Thống Nhất (94%).

Các doanh nghiệp lớn (doanh thu trên 2 tỷ USD) thể hiện mức độ tin tưởng cao hơn về triển vọng thương mại quốc tế (82%) và có xu hướng ứng dụng công nghệ nhiều hơn (63% so với 56% ở nhóm nhỏ - với doanh thu dưới 500 triệu USD). Dù vậy, họ cũng thận trọng hơn trong đầu tư - 38% doanh nghiệp lớn dự kiến tạm hoãn kế hoạch đầu tư, so với 30% ở nhóm doanh nghiệp nhỏ - thường linh hoạt hơn và đưa ra quyết định nhanh chóng hơn mặc dù thiếu nguồn lực về vốn.

“Bối cảnh thuế quan và thương mại bất định trong hiện tại mang đến nhiều thách thức không nhỏ cho doanh nghiệp toàn cầu nhưng bản thân doanh nghiệp lại cho thấy sự kiên cường và khả năng thích ứng linh hoạt trong hoạt động kinh doanh”, ông Surajit Rakshit, Giám đốc Toàn quốc Khối Giải pháp Thương mại Toàn cầu của HSBC Việt Nam, nhận định.

Tuy nhiên trong bối cảnh dự báo chi phí sẽ còn tiếp tục gia tăng và doanh thu sụt giảm, chuyên gia này cho rằng việc xây dựng chính sách thích ứng là rất cấp thiết. Để vượt qua tình hình này, doanh nghiệp không chỉ cần sự linh hoạt mà cả những quan hệ đối tác vững mạnh nhằm đảm bảo tăng trưởng ổn định trong một nền kinh tế toàn cầu đang không ngừng đổi thay.

Khi không thể biết chắc chừng nào “trời quang mây tạnh”, nghĩa là các công ty cần chuẩn bị cho nhiều tình huống có thể xảy ra và không thể cứ đi theo một kế hoạch tuyến tính duy nhất. “Là một trong những ngân hàng quốc tế hàng đầu Việt Nam, chúng tôi đóng một vai trò thiết yếu trong việc giúp khách hàng vượt qua những giai đoạn nhiều thách thức như hiện nay và hỗ trợ họ biến chông gai thành cơ hội”, ông Surajit Rakshit nói.

Kiên cường vượt khó, doanh nghiệp Việt Nam tin tưởng vào tăng trưởng thương mại

Doanh nghiệp Việt Nam đã phải đối mặt với tình trạng chi phí tăng cao hơn hẳn so với mức trung bình toàn cầu và dự kiến sẽ phát sinh thêm chi phí ngắn hạn do bất ổn thương mại. Cụ thể, 80% doanh nghiệp Việt Nam tham gia khảo sát cho biết đã phải đối mặt với tình trạng chi phí gia tăng do biến động thuế quan và thương mại. Họ có thể sẽ phải đối mặt với chi phí tăng cao hơn trong ngắn hạn (82%) và tăng nhẹ thêm nữa trong dài hạn (75%). Tác động lên doanh thu bình quân đối với doanh nghiệp Việt Nam do chậm trễ hoặc gián đoạn chuỗi cung ứng cao hơn mức trung bình toàn cầu 2 điểm phần trăm.

Để ứng phó với bất ổn thương mại, các doanh nghiệp Việt Nam đã mang hoạt động sản xuất về lại Việt Nam (42%), dịch chuyển trọng tâm sang thị trường trong nước (41%) và gia tăng hoạt động phân tích dữ liệu (41%).

Nhìn về tương lai, các công ty Việt Nam vẫn tự tin về tăng trưởng quốc tế (81%) và nhiều doanh nghiệp tham gia khảo sát (76%) cho rằng bất ổn thương mại đã khuyến khích họ phát triển và tìm kiếm cơ hội mới. Mặc dù vậy, hơn một nửa doanh nghiệp (54%) cho biết họ cần sự hỗ trợ bên ngoài trong việc lập kế hoạch đối phó với khủng hoảng và củng cố sức bền cho doanh nghiệp.

Từ góc nhìn khu vực, châu Á đang định hình lại bản đồ thương mại. Nếu bất ổn kéo dài, 38% doanh nghiệp châu Á tham gia khảo sát cho biết sẽ tăng hợp tác với Nam Á, 36% với châu Âu và 33% với Trung Đông; trong khi 28% dự kiến giảm giao dịch với Bắc Mỹ. Về chiến lược sản xuất, 52% hướng tới Trung Quốc, 39% Nam Á và 35% châu Âu. Chi phí thương mại là mối lo lớn nhất (51%), dẫn đến việc tăng giá sản phẩm và gia tăng hàng tồn kho để ứng phó đứt gãy chuỗi cung ứng.

Ông Surajit Rakshit chia sẻ thêm, với nhiều khách hàng, vốn lưu động hiện là ưu tiên hàng đầu với lãnh đạo cấp cao của doanh nghiệp, chủ yếu do phần lớn vốn bị kẹt ở hàng tồn và các khoản phải thu. Trước khi thông báo thuế quan được công bố, nhiều doanh nghiệp mua hàng đã chủ động tăng mức tồn kho bằng chiến lược đẩy nhanh đơn hàng đặt trước (frontloading) để ứng phó với những vấn đề chuỗi cung ứng dẫn tới lượng hàng tồn gia tăng ở phía người mua.

Ở chiều ngược lại, khi quy định thuế quan tạm thời đi vào thực thi kéo theo tình trạng treo hoặc hủy hàng loạt đơn đặt hàng và vận chuyển ở một số lĩnh vực, dẫn đến hàng tồn tăng ở phía nhà cung cấp.

Trong giai đoạn gián đoạn thương mại hiện nay, các công ty châu Á nhận định quản lý dòng tiền và thanh khoản là hình thức hỗ trợ hiệu quả nhất trong quản lý vốn lưu động (61%), theo sau là cải thiện điều khoản thanh toán với bên mua và bên cung ứng (55%) và tài trợ chuỗi cung ứng (51%).

Lê Đỗ

Nguồn TBNH: https://thoibaonganhang.vn/doanh-nghiep-toan-cau-ung-pho-linh-hoat-voi-bat-on-thuong-mai-165035.html
Zalo