Doanh nghiệp nông nghiệp kiến nghị áp dụng cơ chế 'hậu kiểm, hậu hỗ trợ'
Sau hơn 6 năm triển khai Nghị định 98, doanh nghiệp nông nghiệp kiến nghị áp dụng cơ chế 'hậu kiểm, hậu hỗ trợ', cho phép doanh nghiệp và hợp tác xã tham gia ngay từ đầu các dự án lớn như Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao.
Bổ sung cơ chế khuyến khích phát triển chuỗi giá trị xanh và vùng nguyên liệu
Bộ Nông nghiệp và Môi trường đang hoàn thiện dự thảo nghị định thay thế Nghị định 98/2018/NĐ-CP trong bối cảnh nông nghiệp Việt Nam đang chuyển mình mạnh mẽ để thích ứng với biến đổi khí hậu và hội nhập quốc tế.
Nghị định 98/2018/NĐ-CP ban hành ngày 5/7/2018, tập trung vào chính sách khuyến khích phát triển hợp tác, liên kết trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp, với 7 hình thức liên kết chính từ cung ứng vật tư đến tiêu thụ. Sau hơn 6 năm triển khai, nghị định này đã hình thành 2.938 dự án liên kết trên toàn quốc, kết nối hơn 200.000 hộ nông dân với doanh nghiệp và hợp tác xã (HTX), góp phần cải thiện tổ chức sản xuất theo chuỗi giá trị và nâng tầm các sản phẩm chủ lực như gạo ST25, cà phê Buôn Ma Thuột hay điều Bình Phước đạt chuẩn quốc tế. Tuy nhiên, quá trình thực hiện vẫn tồn tại vướng mắc như thủ tục hỗ trợ phức tạp, liên kết chưa bền vững (chủ yếu dừng ở hợp đồng tiêu thụ, chưa khép kín toàn chuỗi), năng lực HTX yếu và thiếu cơ chế cho liên kết số, xanh cùng truy xuất nguồn gốc.

Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Võ Văn Hưng phát biểu tại Hội nghị Hội nghị sơ kết 6 năm thực hiện Nghị định số 98/2018/NĐ-CP.
Dự thảo nghị định mới tập trung bổ sung các cơ chế khuyến khích phát triển chuỗi giá trị xanh và vùng nguyên liệu đạt chuẩn, nhằm phục vụ hiệu quả cho xuất khẩu. Trọng tâm là gắn kết các chuỗi liên kết với các chương trình quốc gia lớn, nổi bật là Đề án "Phát triển bền vững một triệu ha chuyên canh lúa chất lượng cao và phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh vùng Đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2030" (phê duyệt theo Quyết định 1490/QĐ-TTg ngày 27/11/2023), cùng các mô hình nông nghiệp tuần hoàn giảm phát thải khí nhà kính. Đến vụ Hè-Thu 2025, Đề án đã đạt 354.839 ha (vượt 197% mục tiêu), thu hút hơn 200.000 hộ tham gia, giúp giảm chi phí sản xuất 1,7-4,9 triệu đồng/ha, tiết kiệm giống 50-65%, phân đạm 31,3%, nước tưới và thuốc bảo vệ thực vật, đồng thời tăng năng suất 3,2-22,1% và giảm phát thải 3,7 tấn CO₂e/ha/vụ. Các mô hình thí điểm trong giai đoạn 2024-2025, với quy mô 1.800 ha qua 5 dự án khuyến nông trung ương, đạt hiệu quả kinh tế trên 15%, đang được nhân rộng để hướng tới mục tiêu bền vững toàn vùng. Ngoài ra, dự án đầu tư 405 triệu USD cho hạ tầng và kỹ thuật lúa chất lượng cao, phát thải thấp tại Đồng bằng sông Cửu Long sẽ hỗ trợ triển khai đồng bộ các giải pháp.
Theo Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Võ Văn Hưng, liên kết chuỗi giá trị không chỉ là yếu tố then chốt để xây dựng nền nông nghiệp hiện đại mà còn là định hướng chiến lược dài hạn cho ngành. Tại Hội nghị sơ kết 6 năm thực hiện Nghị định 98 (11/11/2025), ông nhấn mạnh: "Liên kết chuỗi giá trị là chìa khóa thể chế cho nền nông nghiệp hiện đại, thích ứng biến đổi khí hậu và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Đây không chỉ là chỉ đạo, mà còn là định hướng chiến lược cho tương lai ngành nông nghiệp Việt Nam."
Trong bối cảnh kinh tế số và cam kết Net Zero vào năm 2050, chuỗi giá trị nông nghiệp xanh với phát thải thấp, truy xuất nguồn gốc rõ ràng và thương mại carbon sẽ trở thành động lực kinh tế mới, mang lại lợi ích thiết thực cho nông dân và doanh nghiệp, hướng tới mục tiêu xuất khẩu nông sản đạt 100 tỷ USD.
Lãnh đạo Bộ Nông nghiệp và Môi trường đã gợi mở bốn định hướng chiến lược chính để thúc đẩy chuỗi giá trị nông nghiệp xanh. Đầu tiên là cải cách mạnh mẽ thủ tục hành chính và cơ chế hỗ trợ, nhằm tạo môi trường kinh doanh minh bạch, thuận lợi, với trọng tâm là nâng cao hiệu quả của chuỗi giá trị. Tiếp theo là phát triển chuỗi giá trị số và chuỗi giá trị xanh, thúc đẩy ứng dụng công nghệ truy xuất nguồn gốc, quản trị số, giảm phát thải và phát triển tín chỉ carbon. Định hướng thứ ba tập trung vào việc tổ chức lại sản xuất gắn liền với vùng nguyên liệu đạt chuẩn, đảm bảo tính công khai, minh bạch thông qua hệ thống mã số vùng trồng và bản đồ số. Cuối cùng là xây dựng hệ sinh thái tư vấn liên kết chuyên nghiệp, kết nối chặt chẽ giữa sản xuất, thị trường, hợp đồng và vận hành chuỗi.
Thứ trưởng Võ Văn Hưng coi đây là sự chuyển dịch từ mô hình "hỗ trợ hành chính" sang "kiến tạo môi trường phát triển", với nền tảng là văn hóa hợp tác. Ông khẳng định: "Liên kết chuỗi giá trị không chỉ là phương thức sản xuất, mà còn là niềm tin và bản lĩnh hội nhập của nông dân, hợp tác xã và doanh nghiệp Việt Nam."
Doanh nghiệp Việt kiến nghị để mở đường chuỗi giá trị nông nghiệp xanh
Từ góc độ doanh nghiệp, ông Huỳnh Văn Thòn, Chủ tịch Hội đồng Quản trị Tập đoàn Lộc Trời, đánh giá cao việc sửa đổi Nghị định 98 sau hơn sáu năm triển khai, coi đây là bước đi cần thiết và kịp thời để giải quyết các vướng mắc thực tiễn.

Cánh đồng mẫu lớn của Lộc Trời (Ảnh: LTG).
Chủ tịch Hội đồng Quản trị Tập đoàn Lộc Trời chia sẻ bốn vấn đề cần ưu tiên hoàn thiện: khung pháp lý rõ ràng, rà soát và làm rõ chính sách liên kết, ứng dụng khoa học - công nghệ, cũng như bảo đảm lợi ích thiết thực cho nông dân.
Theo ông Huỳnh Văn Thòn, doanh nghiệp cần sự hỗ trợ mạnh mẽ hơn, nông dân đòi hỏi liên kết chặt chẽ, và các bên tham gia phải có cơ chế kết nối hiệu quả. Đây cũng là cơ hội để triển khai các dự án lớn như Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao, đồng thời giải quyết các thách thức đang đặt ra trong ngành nông nghiệp.
Tập đoàn Lộc Trời đề xuất phân cấp mạnh mẽ hơn cho chính quyền địa phương, cho phép giao quyền trực tiếp để đảm bảo thủ tục minh bạch và đúng thẩm quyền. Việc thẩm định dự án có thể được giao cho cấp cơ sở, tăng tính chủ động và nâng cao năng lực quản lý. Kết hợp với hệ thống khuyến nông và các mô hình thí điểm, điều này sẽ giúp triển khai đồng bộ, hình thành hệ sinh thái nông nghiệp theo chuỗi ngành hàng.
Đặc biệt, tập đoàn kiến nghị áp dụng cơ chế "hậu kiểm, hậu hỗ trợ", cho phép doanh nghiệp và hợp tác xã tham gia ngay từ đầu, với Nhà nước hoàn trả kinh phí sau khi mô hình chứng minh hiệu quả. Đồng thời, cơ chế bảo hiểm và trọng tài độc lập sẽ bảo vệ quyền lợi, trách nhiệm của các bên, củng cố nền tảng pháp lý vững chắc.
Về lĩnh vực khoa học - công nghệ, việc chuyển giao cần được thực hiện sát sao với sản xuất thực tiễn, kết hợp cơ chế đầu tư công - tư và quỹ khuyến nông để áp dụng các tiến bộ kỹ thuật mới nhất, từ đó nâng cao năng suất và chất lượng nông sản.
Trong khía cạnh tài chính, ông Thòn nhấn mạnh nhu cầu lớn về vốn nhưng khả năng tiếp cận còn hạn chế. Ông kiến nghị ngân hàng và tổ chức tín dụng tham gia trực tiếp vào hệ sinh thái nông nghiệp, giúp nông dân, doanh nghiệp và hợp tác xã tiếp cận vốn dễ dàng hơn, từ đó xây dựng chuỗi liên kết bền vững. "Mô hình thử nghiệm sẽ giúp xác định hiệu quả, từ đó hoàn thiện thể chế," ông Thòn nhấn mạnh.
Không chỉ ở tầm vĩ mô, những người trực tiếp vận hành chuỗi liên kết trên đồng ruộng cũng đang cảm nhận rõ sự thay đổi và cả những nút thắt cần tháo gỡ.
Bà Nguyễn Thị Mai, Chủ tịch Hợp tác xã Dịch vụ Nông nghiệp An Ninh (xã An Viên, huyện Tiên Lữ, Hưng Yên), nhớ lại: “Trước đây nông dân chúng tôi sản xuất tự phát, ai nấy làm, bán được bao nhiêu hay bấy nhiêu, giá trị sản phẩm rất thấp”. Từ khi xây dựng chuỗi liên kết, áp dụng quy trình sản xuất sạch và đạt chứng nhận OCOP 4 sao cho sản phẩm gạo hữu cơ, gạo nếp cái hoa vàng, mọi thứ đã khác hẳn. “Sản lượng tiêu thụ tăng gấp 10 lần, từ 40 tấn lên hơn 400 tấn mỗi năm”, bà Mai chia sẻ.
Tuy nhiên, bà cũng thẳng thắn chỉ ra những khó khăn còn tồn tại: thời tiết cực đoan ngày càng khó lường, chi phí sản xuất tăng cao, đặc biệt là phân bón và thuốc bảo vệ thực vật; quan trọng nhất vẫn là tư duy sản xuất manh mún, nhỏ lẻ của một bộ phận nông dân. Để chuỗi liên kết thực sự bền vững, bà Mai đề xuất Nhà nước cần có cơ chế mạnh hơn trong hỗ trợ tích tụ tập trung đất đai, đầu tư cơ giới hóa đồng bộ, xây dựng hạ tầng thủy lợi và kho bãi, đẩy mạnh chuyển đổi số trong quản lý vùng trồng, xúc tiến thương mại và đặc biệt là đào tạo đội ngũ cán bộ hợp tác xã chuyên nghiệp – những “nhạc trưởng” thực sự của chuỗi giá trị.
Cùng quan điểm, bà Bùi Thị Hạnh Hiếu, Tổng Giám đốc Công ty CP Kinh doanh Chế biến Nông sản Bảo Minh (Hải Dương), cho biết doanh nghiệp của bà hiện đã xây dựng được mạng lưới hơn 8.000 điểm bán hàng trên cả nước, đồng thời đẩy mạnh xuất khẩu, thương mại điện tử và bán lẻ trực tuyến. Riêng vùng nguyên liệu lúa chất lượng cao tại Hải Dương đã đạt quy mô 500 ha với đầy đủ mã số vùng trồng và truy xuất nguồn gốc điện tử.
“Chúng tôi sẵn sàng đầu tư lớn, nhưng mức hỗ trợ hiện tại chỉ tối đa 10 tỷ đồng/dự án là chưa đủ để doanh nghiệp mạnh dạn mở rộng quy mô hàng nghìn ha và xây dựng nhà máy chế biến sâu”, bà Hiếu nói. Do đó, bà đề xuất cần nâng mức hỗ trợ vốn lên 50 tỷ đồng đối với những dự án đầu tư bài bản, có sức lan tỏa lớn; đồng thời phân luồng chính sách hỗ trợ theo quy mô và hiệu quả thực tế của từng chuỗi liên kết. “Có như vậy mới khuyến khích được doanh nghiệp làm thật, làm lớn, từ đó kéo theo hàng nghìn hộ nông dân cùng hưởng lợi, hình thành những vùng nguyên liệu tập trung, đạt chuẩn quốc tế, đủ sức cạnh tranh trên thị trường toàn cầu”, bà Hiếu nhấn mạnh.
Với những định hướng chiến lược, đề xuất từ doanh nghiệp, HTX và kết quả ấn tượng từ các chương trình quốc gia, dự thảo nghị định mới hứa hẹn sẽ mở ra giai đoạn phát triển đột phá cho nông nghiệp Việt Nam. Không chỉ góp phần thực hiện cam kết Net Zero mà còn nâng cao giá trị gia tăng, hướng tới một nền kinh tế nông nghiệp xanh, bền vững và cạnh tranh toàn cầu, mang lại lợi ích lâu dài cho hàng triệu nông hộ và thúc đẩy xuất khẩu nông sản đạt kim ngạch kỷ lục.
































